Tin tức

Một số phương pháp vi sinh chẩn đoán nhiễm trùng do vi khuẩn không lao NTM

Ngày 19/09/2023
Tham vấn y khoa: PGS.TS Hoàng Thị Phượng
Các kỹ thuật phát hiện nhiễm trùng do vi khuẩn không lao NTM ngày càng hiện đại. Bao gồm phân tích đa hình các chiều dài sản phẩm PCR được cắt hạn chế (PRA: PCR – restriction fragment length polymorphism analysis), giải trình tự DNA ribosome 16S, giải trình tự đa gen và giải trình tự toàn bộ bộ gen… Các phương pháp này hiện nay được xem là đáng tin cậy, nhanh chóng để phát hiện và định danh các NTM từ các bệnh phẩm lâm sàng.

1. Phương pháp nhuộm soi kính và nuôi cấy


Phương pháp nhuộm soi kính và nuôi cấy

Xét nghiệm đờm soi kính trực tiếp tìm AFB

Nhuộm soi kính trực tiếp phát hiện AFB không thể phân biệt giữa NTM và M.tuberculosis. NTM có mặt trong môi trường, đặc biệt là trong các nguồn nước nên việc thu thập mẫu đờm đảm bảo chất lượng là cần thiết để tránh nhiễm.

Hơn nữa, sự hiện diện tạm thời của các loài NTM trong đường hô hấp mà chưa gây bệnh cũng có thể dẫn đến các mẫu dương tính. Do đó, việc thu thấp ba mẫu sáng sớm vào những ngày khác nhau thường được dùng để chẩn đoán bệnh phổi do NTM. Lấy đờm tác động có thể được sử dụng ở những bệnh nhân không thể tự lấy đờm.

Nuôi cấy NTM

Với đặc tính tiến triển chậm của bệnh phổi do NTM và để phân biệt NTM phân lập được do nhiễm thoáng qua ở đường hô hấp, chẩn đoán bệnh phổi NTM cần ít nhất 3 mẫu đờm được nuôi cấy. Thời gian kiểm tra đờm kéo dài và đảm bảo các mẫu cấy dương tính lặp lại là có thể loại trù khả năng nhiễm thoáng qua ở đường hô hấp.

Nuôi cấy mẫu hô hấp được thực hiện trên cả môi trường đặc, để cải thiện độ nhạy. Một phân tích tổng hợp trong số 9 nghiên cứu trên thế giới cho thấy sự gia tăng độ nhạy của nuôi cấy đối với NTM là 15% nếu một môi trường đặc được thực hiện cùng với hệ thống nuôi cấy lỏng (MGIT).

Cấy đờm, dịch rửa phế quản để tìm NTM, hầu hết các loại NTM rất dễ nuôi cấy và chúng có thể được cấy trên các môi trường thông thường. Tuy nhiên, một số loài như M.haemophilum có thể cần thêm điều kiện đặc biệt như haemin: như môi trường thạch socola hoặc bổ sung amini sắt citrate.

2. Phương pháp định danh NTM


Phương pháp định danh NTM

Xác định loài NTM nói chung:

Phương pháp sinh vật hóa học: Sau khi phân loại mycobacteria dựa trên tốc độ tăng trưởng và sắc tố, hầu hết các mycobacteria có thể được xác định bằng các phản ứng sinh vật hóa học.

Kỹ thuật phân tích lipid tế bào để phân loại mycobacteria: Mycobacteria có thể được mô tả đặc trưng theo nhóm và loài dựa trên phân tích lipid thành tế bào của chúng bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao. Kỹ thuật này rất đơn giản, đã được phát triển cùng với phần mềm phân tích kết quả đi kèm giúp dễ dàng phân tích và định danh nhanh các chủng phân lập được từ các môi trường lỏng và rắn.

Các kỹ thuật xác định mycobacteria ở các phòng thí nghiệm hiệu chuẩn: Định type huyết thanh, Isoenzyme và điện di potein, các kỹ thuật liên quan đến miễn dịch dựa trên sự khác biệt về cấu trúc của một số enzyme nhất định để có thể xác định được nhiều loại vi khuẩn mycobacteria khác nhau trên lâm sàng.

Các phương pháp sinh học phân tử mới: các mẫu dò gen, phương pháp khuếch đại gen, kỹ thuật dấu vân tay DNA và mẫu dò để phân biệt chủng vi khuẩn; kỹ thuật khối phổ MALDI – TOF ( Matrix – assisted laser desorption/ionization) là phương pháp được lựa chọn để xác định loài NTM trong thời gian gần đây.

Trong các kỹ thuật trên, kỹ thuật thường dùng là PCR, RT-PCR và là xét nghiệm được kỳ vọng nhất hiện nay trong chẩn đoán sớm nhiễn trùng do NTM.

3. Xét nghiệm tính nhạy cảm với thuốc kháng sinh của NTM


Nuôi cấy để xác định chủng vi khuẩn gây bệnh

Xét nghiệm tính nhạy cảm với thuốc kháng sính của NTM chỉ nên được thực hiện cho tất cả các chủng phân lập có ý nghĩa lâm sàng trước khi bắt đầu điều trị.

Các chủng phân lập từ máu, dịch cơ thể vô trùng khác hoặc các mô thường được coi là có ý nghĩa lâm sàng. Tuy nhiên, việc xác định ý nghĩa lâm sàng của các chủng đường hô hấp còn nhiều vấn đề, nhiều NTM có thể quần cư nhưng chưa gây bệnh ở đường hô hấp.

Xét nghiệm nhạy cảm thuốc (-DST: drug – susceptibility testing) được thực hiện đối với các thuốc được sử dụng trong phác đồ điều trị và có mối tương quan rõ ràng giữa in vitro và in vivo, ngày càng trở nên rõ ràng với NTM, đặc biệt là đối với macrolide và amikacin.

Viện tiêu chuẩn Phòng thì nghiệm Lâm sàng (CLSI) đã cung cấp hướng dẫn cho các xét nghiệm nhạy cảm của thuốc. CLSI khuyến cáo thử nghiệm tính nhạy cảm của thuốc phải được thực hiện bằng phương pháp pha loãng trong môi trường nuôi cấy. Đối với bệnh nhân mà phân lập NTM được coi là có ý nghĩa lâm sàng, thử nghiệm tính nhạy cảm với thuốc được thực hiện đối với các chủng phân lập chính cũng như phân lập ở bệnh nhân tái phát hay thất bại.

4. Các kỹ thuật vi sinh lâm sàng được khuyến nghị thực hiện theo nguồn lực


Các kỹ thuật thực hiện với nguồn lực thấp

  • Nuôi cấy phân lập lặp đi lặp lại trên môi trường thông thường và xác định bằng các xét nghiệm sinh vật hóa học chọn lọc
  • Nuôi cấy trong môi trường lỏng bất kỳ và xác định bởi mẫu lipid
  • Mô bệnh học
  • PCR – RFLP (PCR sẵn có)

Các kỹ thuật thực hiện với nguồn lực vừa phải

  • Nuôi cấy phân lập lặp đi lặp lại trên môi trường thông thường và xác định bằng các xét nghiệm sinh vật hóa học chọn lọc.
  • Nuôi cấy trong bất kỳ môi trường lỏng tiêu chuẩn như BACTEC/MGIT/MB – BACTEC và định danh bằng mô hình mẫu dò lai hóa/lipid
  • Mô bệnh học; cộng với hóa mô miễn dịch , mô bệnh học tại chỗ
  • PCR – RFLP

Các kỹ thuật tại phòng thí nghiệm

  • Nuôi cấy phân lập lặp đi lặp lại trên môi trường thông thường và xác định bằng các xét nghiệm sinh hóa chọn lọc
  • Nuôi cấy trong bất kỳ môi trường lỏng tiêu chuẩn như BACTEC/MGIT/MB – BACTEC và nhận dạng bằng mẫu dò mô hình lai hoa/lipid
  • Mô bệnh học; cộng với hóa mô miễn dịch, lai tại chỗ, PCR tại chỗ…
  • PCR – RFLP
  • Kháng sinh đồ
  • Xét nghiệm DNA
  • Mẫu xét nghiệm DNA
  • MALDI – TOF

Các kỹ thuật thăm dò khác

  • Huyết thanh học

Xét nghiệm huyết thanh học có tính ứng dụng trong chẩn đoán bệnh phổi do NTM và trong theo dõi đáp ứng với điều trị ở một số nhóm bệnh nhân. Nhiều loại marker sinh học có thể là marker chẩn đoán và theo dõi mức độ hoạt động của bệnh phổi do NTM.

  • TST và IGRA

TST ( tuberculin) và IGRA (interferon gamma release assays) đều không thể phân biệt nhiễm lao và MAC. TST sử dụng PPD – B tương đối nhạy, nhưng có độ đặc hiệu thấp đối với NTM và hạn chế sử dụng trên lâm sàng do vấn đề về chuẩn hóa và vấn đề tương đương sinh học về kháng nguyên. TST và IGRA không đủ độ nhạy và /hoặc độ đặc hiệu trong đánh giá bệnh nhân nghi ngờ viêm phổi do NTM.

Nội dung được trích từ “Cẩm nang thực hành lâm sàng bệnh nhiễm trùng do NTM” do tác giả PGS.TS Hoàng Thị Phượng, Nguyên Trưởng khoa Lao và Bệnh phổi - Viện Phổi Trung ương; Phó chủ nhiệm Bộ môn Nội Khoa Y - Đại học Quốc Gia Hà Nội, chuyên gia cao cấp tại Hệ thống Y tế MEDLATEC biên soạn.

Bình luận ()

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt trước khi đăng.

Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.