Tin tức

02 nghiên cứu đột phá được báo cáo viên MEDLATEC công bố tại hội nghị Hội Hóa sinh Y học Hà Nội và các tỉnh phía Bắc lần thứ 27

Ngày 20/09/2024
Ban biên tập
Trong hai ngày 20 và 21/9, hội nghị khoa học Hội Hóa sinh Y học Hà Nội và các tỉnh phía Bắc lần thứ 27 chính thức khai mạc với sự quy tụ của đại biểu từ các cơ quan trực thuộc Bộ Y tế, trường đại học, viện nghiên cứu, các cơ sở y tế lớn trên cả nước. Góp phần vào thành công của hội nghị, BS. Triệu Thùy Anh và ThS.BSNT Trần Văn Chiều -Phòng Hóa sinh - Trung tâm Xét nghiệm MEDLATEC mang đến những chuyên đề báo cáo với hàm lượng kiến thức chuyên môn giá trị, cập nhật, được đánh giá cao bởi giới chuyên gia.

Hội nghị khoa học Hội Hóa sinh Y học Hà Nội và các tỉnh phía Bắc lần thứ 27 được diễn ra trong 02 ngày (20 - 21/9) tại Bắc Giang, là diễn đàn thường niên, nơi các nhà quản lý, nhà khoa học và cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực hóa sinh có cơ hội trao đổi thông tin khoa học, chia sẻ kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu mới. Đây cũng là nơi những sáng kiến và kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình công tác được chia sẻ, từ đó có những đóng góp thiết thực cho nền y học Việt Nam và sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân.  

BSCKII Nguyễn Hoài Nam - Chủ tịch Hội hoá sinh y học HN và các tỉnh phía Bắc phát biểu khai mạc hội nghị 

Với ý nghĩa thiết thực đó, bằng tinh thần không ngừng học hỏi và chia sẻ kiến thức chuyên môn, đại diện Hệ thống Y tế MEDLATEC tham dự hội nghị gồm có: TS.BS Trịnh Thị Quế - Giám đốc Trung tâm Xét nghiệm MEDLATEC; TS.BS Ngô Mạnh Quân - Phó Giám đốc Khối khách hàng doanh nghiệp; ông Vũ Xuân Bảng - Giám đốc MEDLATEC Bắc Giang; cùng đội ngũ báo cáo viên là BS. Triệu Thùy Anh và ThS.BSNT. Trần Văn Chiều đến từ Phòng Hóa sinh thuộc Trung tâm Xét nghiệm MEDLATEC.   

Đại biểu đến từ Hệ thống Y tế MEDLATEC tham dự hội nghị 

Theo đó, trong 02 ngày diễn ra hội nghị, đội ngũ báo cáo viên MEDLATEC đóng góp 02 nội dung nghiên cứu giá trị, thực tiễn, nhận được sự quan tâm của đông đảo đại biểu tham dự. 

Công bố giá trị về khảo sát nguy cơ tiền sản giật quý I dựa trên mô hình yếu tố nguy  cơ mẹ và mô hình phối hợp FMF  

Tại phiên thứ nhất của hội nghị, BS. Triệu Thùy Anh mang đến nội dung báo cáo với chủ đề “Khảo sát nguy cơ tiền sản giật quý I dựa trên mô hình yếu tố nguy cơ mẹ và mô hình phối hợp FMF tại Hệ thống Y tế MEDLATEC”. 

 BS. Triệu Thùy Anh trình bày nghiên cứu về khảo sát nguy cơ tiền sản giật quý I 

Là nỗi lo chung của nhiều mẹ bầu, tiền sản giật được các chuyên gia Sản khoa đầu ngành cảnh báo về mức độ nguy hiểm với thai phụ và thai nhi nếu mắc phải trong quá trình mang thai. Mở đầu nội dung báo cáo, BS. Triệu Thùy Anh chỉ ra thực trạng đáng báo động và mức độ nguy hiểm của hội chứng này. 

Theo đó, tiền sản giật là rối loạn chức năng đa cơ quan ảnh hướng đến 2 – 10% phụ nữ có thai. Số lượng thai phụ tử vong liên quan tới tình trạng tăng huyết áp thai kỳ là 42.000 ca/năm, chủ yếu do tiền sản giật và sản giật. Đáng chú ý, cứ 4 trẻ tử vong chu sinh thì có 1 trẻ liên quan tới tiền sản giật. 

Trước thực trạng này, BS Thùy Anh khẳng định, việc phát hiện sớm thai phụ có nguy cơ cao và điều trị dự phòng mang lại giá trị rất lớn.  

Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, tiền sản giật có thể được sàng lọc bằng yếu tố nguy cơ mẹ và mô hình phối hợp đa yếu tố. Câu hỏi đặt ra, vậy sự khác biệt về tỷ lệ sàng lọc nguy cơ cao giữa hai mô hình là gì?  

Trước thực tế đó, BS Thùy Anh cùng các cộng sự tiến hành khảo sát nguy cơ tiền sản giật quý I dựa trên mô hình yếu tố nguy cơ mẹ và mô hình phối hợp FMF tại MEDLATEC với mục đích khảo sát mối liên quan giữa tỷ lệ sàng lọc tiền sản giật quý 1 có nguy cơ cao với các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng khác. 

Theo đó, 03 kết luận quan trọng thể hiện trong nghiên cứu được BS. Triệu Thùy Anh công bố bao gồm:  

  • Tỷ lệ nhóm thai phụ nguy cơ cao khi thực hiện sàng lọc tiền sản giật quý 1 bằng mô hình FMF tại hệ thống y tế MEDLATEC là 9.86%. 
  • Nồng độ huyết thanh các dấu ấn PlGF và PAPP-A của các thai phụ thuộc nhóm nguy cơ cao thấp hơn rõ rệt so với nhóm nguy cơ thấp.
  • Các yếu tố tuổi mẹ cao trên 35 tuổi, hỗ trợ sinh sản, mang thai lần đầu, nồng độ PAPP-A < 0.4 MoM, nồng độ PlGF < 100 pg/mL và MAP > 88.5 mmHg có mối liên quan rõ ràng với kết quả sàng lọc tiền sản giật quý 1 có nguy cơ cao. 

Xét nghiệm dị nguyên - “Chìa khóa” quan trọng để kiểm soát phản ứng dị ứng 

Nghiên cứu thứ 2 được ThS.BSNT Trần Văn Chiều trình bày với chủ đề “Tỷ lệ dương tính với kháng thể IgE đặc hiệu dị nguyên và một số yếu tố liên quan trên các đối tượng được xét nghiệm tại MEDLATEC năm 2023” tại phiên thứ 3 của hội nghị tiếp nhận được được sự đánh giá cao của giới chuyên môn.  

Nội dung nghiên cứu về xét nghiệm IgE của ThS.BSNT Trần Văn Chiều nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn 

Tổ chức Dị ứng Thế giới (WAO) ước tính tỷ lệ dân số dị ứng trên toàn thế giới theo quốc gia dao động trong khoảng 10 - 40%. Theo số liệu của Bệnh viện Da liễu Trung ương và Trung tâm Dị ứng Bạch Mai, tỷ lệ mắc các bệnh dị ứng tại Việt Nam khá cao, khoảng 20 triệu người (tương đương 20% dân số), tập trung chủ yếu ở một số vùng nông thôn. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh lý này gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe và chất lượng cuộc sống.  

Dị nguyên là chất gây ra phản ứng dị ứng với cơ thể. Các chất gây phản ứng dị ứng có thể kể đến như thực phẩm, thuốc, hóa chất, bụi, phấn hoa, côn trùng... Khi hệ thống miễn dịch xác định rằng đây là chất lạ có khả năng gây nguy hiểm, cơ thể sẽ phản ứng lại bằng cách tạo ra một loại kháng thể gọi là IgE để chống lại dị nguyên và cơ thể khởi phát các triệu chứng dị ứng.  

Bác sĩ Chiều khẳng định, đặc điểm về tỷ lệ nhạy cảm các dị nguyên gây dị ứng đóng vai trò quan trọng trong dịch tễ, lâm sàng và quản lý bệnh dị ứng.  

Với ý nghĩa đó, nghiên cứu về tỷ lệ dương tính với kháng thể IgE đặc hiệu dị nguyên và một số yếu tố liên quan trên các đối tượng được xét nghiệm tại MEDLATEC năm 2023 được Ths.BSNT. Trần Văn Chiều cùng các cộng sự thực hiện và công bố kết luận như sau:  

  • Tỷ lệ dương tính với kháng thể IgE đặc hiệu dị nguyên ở các đối tượng được xét nghiệm tại MEDLATEC năm 2023 ở mức cao (50.39%); 
  • Các dị nguyên thường gặp nhất là nhóm dị nguyên môi trường: Mạt bụi D. farinae (33,9%); mạt bụi D. pteronyssinus (30,5%); bụi nhà (27,2%); gián (24,2%); 
  • Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ dương tính với kháng thể IgE đặc hiệu dị nguyên theo giới tính, nhóm tuổi, mùa và các khu vực địa lý khác nhau. 

Hai nghiên cứu nhận được sự quan tâm của đông đảo đại biểu tham dự hội nghị. BSCKII Trần Hoài Nam - Phó Chủ tịch thường trực Hội Hóa sinh y học Việt Nam; Chủ tịch Hội Hóa sinh y học Hà Nội và các tỉnh phía Bắc nhận định: “02 báo cáo viên đến từ MEDLATEC đã xuất sắc được chọn lựa bởi hội đồng chuyên môn từ hơn 100 nội dung báo cáo do y bác sĩ trên toàn quốc gửi về. Điều này minh chứng cho năng lực chuyên môn vượt trội cũng như nỗ lực, quyết tâm trên hành trình khẳng định vị thế hàng đầu trong lĩnh vực Hóa sinh nói riêng và xét nghiệm nói chung”. 

BSCKII Trần Hoài Nam đưa ra đánh giá về chất lượng xét nghiệm nói riêng và năng lực chuyên môn nói chung của MEDLATEC 

PGS.TS Hoàng Văn Sơn - Trưởng Ban Khoa học, Hội Hoá sinh Y học Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, Uỷ viên BCH Hội Hoá sinh Y học Việt Nam đưa ra đánh giá: “Hiếm có đơn vị y tế tư nhân nào chú trọng công tác nghiên cứu khoa học như MEDLATEC. 02 báo cáo của đơn vị trong khuôn khổ hội nghị hôm nay tôi đánh giá có nội dung rất chắc và chuyên sâu”.   

PGS.TS Hoàng Văn Sơn đánh giá cao hàm lượng chuyên môn trong 02 bài báo cáo do MEDLATEC trình bày 

Hy vọng rằng, các nghiên cứu dày công, giàu thực tiễn từ nhóm tác giả MEDLATEC đã góp phần cung cấp thêm kiến thức chuyên môn hữu ích đến đông đảo bác sĩ tham dự, từ đó góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh cho người dân.  

Bình luận ()

Ý kiến của bạn sẽ được xét duyệt trước khi đăng.

Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.