Các tin tức tại MEDlatec
Dùng thuốc trong bệnh xơ cứng bì
Nguyên nhân gây bệnh
Mặc dù các nhà khoa học chưa xác định được chính xác nguyên nhân gây bệnh của xơ cứng bì nhưng có thể khẳng định rằng đây không phải là một bệnh lây nhiễm hoặc di truyền từ bố mẹ sang con cái. Người ta nghi ngờ rằng bệnh xơ cứng bì gây ra do sự phối hợp của nhiều yếu tố:
- Hoạt tính bất thường của hệ miễn dịch: trong xơ cứng bì, hệ miễn dịch kích thích các tế bào xơ non sản xuất ra quá nhiều chất tạo keo, các chất này lắng đọng xung quanh các tế bào, mạch máu, nội tạng và gây tổn thương xơ hoá tại nơi lắng đọng.
- Cấu trúc gen: một số gen có vai trò quan trọng trong sự phát sinh và tiến triển của bệnh xơ cứng bì.
- Các kích thích trong môi trường: việc tiếp xúc với một số yếu tố trong môi trường như các loại siêu vi trùng, các chất keo hoá học và một số loại dung môi hữu cơ trong một thời gian kéo dài có thể gây ra xơ cứng bì.
- Yếu tố nội tiết: trong nhóm tuổi từ 30-55, tỷ lệ xơ cứng bì ở nữ giới cao hơn ở nam giới 7-12 lần, do đó người ta nói đến vai trò của các hormon sinh dục nữ, đặc biệt là estrogen, trong sự phát sinh của bệnh xơ cứng bì.
Dựa vào mức độ của tổn thương da, xơ cứng bì được chia làm 2 thể là xơ cứng bì khu trú và xơ cứng bì lan toả. Trong thể thứ nhất, tổn thương da khu trú ở mặt và ngọn chi, tiến triển chậm và ít có tổn thương nội tạng nặng, biến chứng nguy hiểm nhất là tăng áp động mạch phổi và xơ đường mật. Thể thứ 2 thường có tổn thương da trên diện rộng ở mặt, gốc chi và thân mình, kèm theo có tổn thương ở đường tiêu hoá, tim, thận và phổi. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, mọi giới và chủng tộc, nhưng hay gặp nhất ở phụ nữ trong độ tuổi từ 30-50, bệnh cũng thường xảy ra hơn ở người châu Á và Mỹ - Phi so với người châu Âu.
Biểu hiện của bệnh xơ cứng bì.
Điều trị xơ cứng bì như thế nào?
Hiện nay, điều trị xơ cứng bì vẫn là một thách thức lớn đối với y học do sự phức tạp, đa dạng về triệu chứng và hiệu quả không rõ rệt của các thuốc kiểm soát bệnh. Nhằm mục tiêu kiểm soát dài hạn xơ cứng bì, rất nhiều thuốc đã được thử nghiệm nhưng đều không đem lại kết quả khả quan do kém hiệu quả hoặc độc tính quá cao, chỉ có D-Penicillamine, một loại thuốc điều hoà miễn dịch chứng minh hiệu quả làm mềm da và giảm tỷ lệ tử vong sau 2-5 năm sử dụng. Hiện nay, một số thuốc mới vẫn đang tiếp tục được thử nghiệm như interferon gamma...
Với hiệu quả không rõ rệt của các thuốc kiểm soát bệnh, điều trị triệu chứng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với xơ cứng bì. Do da khô và hay bị ngứa nên người bệnh xơ cứng bì cần tránh tắm nhiều và nên dùng các loại kem dưỡng da, làm ẩm da. Với chứng co thắt mạch đầu chi, người bệnh phải lưu ý giữ ấm, đặc biệt 2 bàn tay, tránh tiếp xúc với khói thuốc lá, dùng các thuốc giãn mạch như nifedipine, prazosin, nitroglycerin. Khi có loét đầu chi, cần vô trùng tốt vùng tổn thương để tránh bị nhiễm trùng. Biểu hiện sưng đau khớp thường đáp ứng tốt với các thuốc chống viêm giảm đau hoặc corticoid liều thấp. Những bệnh nhân có trào ngược thực quản nên được dùng các thuốc ức chế tiết dịch vị như omeprazole và tránh sử dụng các thuốc gây hại cho dạ dày. Biểu hiện trướng bụng, tiêu chảy, giảm hấp thu do rối loạn nhu động ruột non gây loạn khuẩn đường ruột cần được điều trị bằng các thuốc kháng sinh phổ rộng như ampicillin, trimethoprim-sulfamethoxazole, metronidazole mỗi đợt 2 tuần. Triệu chứng do tổn thương các nội tạng như suy tim, rối loạn nhịp tim, xơ phổi, cao huyết áp, suy thận cũng được điều trị giống như trong các bệnh lý khác. Nói chung, bệnh hiếm khi tự khỏi, tỷ lệ sống trên 10 năm khoảng 50-60%.
Trước đây, bệnh nhân xơ cứng bì được khuyên không nên mang thai, tuy nhiên với những tiến bộ gần đây trong điều trị và những hiểu biết đầy đủ hơn về bệnh, lời khuyên cho người bệnh đã có những thay đổi. Mặc dù một số trường hợp có thể bị đẻ non nhưng rất nhiều bệnh nhân xơ cứng bì vẫn có thể mang thai và sinh nở một cách an toàn và con của họ cũng hoàn toàn khoẻ mạnh nếu họ được hướng dẫn đầy đủ và được theo dõi chặt chẽ. Một lời khuyên quan trọng nhất là các bệnh nhân xơ cứng bì nên chờ đợi và theo dõi trong vài năm đầu của bệnh trước khi có thai, vì 3 -5 năm đầu là thời gian người bệnh có nguy cơ cao nhất bị các tổn thương nặng trong nội tạng, trong giai đoạn này, người bệnh không nên có thai. Nếu sau giai đoạn này, người bệnh không có các tổn thương nội tạng nặng, họ có thể mang thai một cách an toàn với sự theo dõi một cách chặt chẽ và thường xuyên của các thày thuốc.
Theo Sức khỏe và đời sống
Lựa chọn dịch vụ
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!