Tin tức
Cẩn thận, nhiễm độc gan do thuốc hạ mỡ máu!
Tương tác thuốc có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc gây ra tình trạng nhiễm độc gan của nhóm thuốc này, nhưng thường khó được nhận biết và dễ bị bỏ sót trên lâm sàng. Hiện nay có 5 nhóm thuốc chính được sử dụng để điều trị hạ mỡ máu là nhóm ức chế men hydroxymethylglutary CoA reductase (nhóm statin), các dẫn xuất của acid fibric (nhóm fibrat), các dẫn xuất của acid nicotinic (niacin), nhóm resin gắn acid mật và dầu cá.
Nhóm statin
Được sử dụng trong hơn 2 thập kỷ qua, các dẫn xuất statin như pravastatin, fluvastatin, simvastatin, atorvastatin, lovastatin và cerivastatin đều đã chứng minh được hiệu quả giúp giảm nồng độ cholesterol trong máu và có độ an toàn tương đối cao, ngoại trừ cerivastatin (thuốc này đã bị rút khỏi thị trường năm 2001 do nguy cơ gây tiêu cơ vân và suy thận cấp). Hầu hết các dẫn xuất statin được chuyển hoá qua gan bởi hệ thống men cytochrome P450 CYP3A4, do đó, nếu được sử dụng cùng các loại thuốc gây ức chế hệ thống men này như erythromycin, diltiazem, itraconazol và cyclosporin, các dẫn xuất statin có thể sẽ bị tăng nồng độ trong máu dẫn đến tăng độc tính. Ngoại trừ fluvastatin, các loại statin khác đều được ghi nhận có thể gây tăng nồng độ men gan alanine aminotransferase (ALT) trong máu với tần suất hiện khoảng 2 - 2,7%, thường có liên quan với liều dùng và xảy ra trong năm đầu tiên dùng thuốc. Suy gan cấp do statin xảy ra ở khoảng 2/1.000.000 người sử dụng thuốc, chủ yếu ở những người dùng liều tối đa, dùng cùng các thuốc ức chế men cytochrome P450, điều trị phối hợp nhiều loại thuốc hạ mỡ máu, người lớn tuổi, có suy giảm chức năng thận hoặc có bệnh gan từ trước.
Nhóm fibrat
Các dẫn xuất chính của nhóm là gemfibrozil, clofibrate và fenofibrate được dùng chủ yếu trong điều trị giảm triglycerid máu. Bên cạnh các tác dụng phụ thường gặp như rối loạn tiêu hóa, mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, nổi ban đỏ, đau nhức cơ…, các biểu hiện tổn thương gan như tăng nồng độ men gan AST, ALT, viêm gan cấp (sốt, đau bụng, tăng men gan, phosphatase kiềm…) cũng được ghi nhận trong một số trường hợp rải rác dùng thuốc, tuy nhiên, tỷ lệ tương đối thấp. Sau khi ngừng thuốc, men gan có thể tự trở về bình thường trong vòng 6 tuần ở hầu hết các bệnh nhân, nhưng một số người có thể đòi hỏi điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch. Bên cạnh khả năng gây độc trực tiếp đối với gan, một số tác giả còn cho rằng các thuốc fibrat có thể kích hoạt bệnh gan tự miễn tiềm tàng từ trước. Việc theo dõi định kỳ men gan cũng được khuyến cáo trong các trường hợp phải điều trị phối hợp giữa nhóm fibrat và nhóm statin.
Niacin
Niacin đã được sử dụng nhiều năm trong điều trị hạ mỡ máu và cũng được chứng minh là có thể giúp giảm rõ rệt nồng độ mỡ máu và nguy cơ mắc các bệnh mạch vành. Tuy nhiên, tác dụng phụ của thuốc chính là lý do làm hạn chế việc sử dụng niacin trong những năm gần đây. Các tác dụng không mong muốn thường gặp liên quan đến niacin là cơn bốc hỏa, nhịp tim nhanh, làm tăng nặng bệnh tiểu đường, viêm loét dạ dày - tá tràng, gút và gây nhiễm độc gan. Tổn thương gan do niacin là một tai biến đã được ghi nhận từ nhiều năm nay, nó thường gặp hơn và đôi khi ở mức độ nặng hơn với dạng phóng thích chậm của niacin so với dạng thông thường, rất nhiều trường hợp đã xuất hiện viêm gan cấp sau khi chuyển từ dạng thông thường của niacin sang dạng phóng thích chậm. Biểu hiện tổn thương gan do niacin có thể từ mức độ tăng nhẹ men gan aminotransferase đến những biểu hiện nặng hơn như nhiễm mỡ ở gan, viêm gan, suy gan cấp, có thể xảy ra ở ngay liều điều trị, nhưng thường gặp hơn ở những người dùng quá liều. Nhiễm độc gan do niacin thường xảy ra trong vòng 1 tuần đầu tiên sau dùng thuốc và thường giảm dần sau khi ngưng thuốc. Một số tác giả còn cho rằng, ngoài việc gây độc trực tiếp trên gan, niacin còn có thể kích hoạt các bệnh lý tiềm tàng khác ở gan. Các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy, việc phối hợp niacin với các thuốc hạ mỡ máu khác làm tăng không đáng kể nguy cơ tổn thương tế bào gan.
Nhóm các resin gắn acid mật
Các dẫn xuất chủ yếu trong nhóm này là cholestyramine, colestipol và colesevelam, được dùng đơn trị liệu hoặc phối hợp trong điều trị các trường hợp tăng LDL cholesterol. Nói chung, đây là một nhóm thuốc tương đối an toàn, các tác dụng phụ trên gan rất hiếm gặp và cơ chế còn chưa được biết rõ.
Dầu cá
Cho đến nay, chưa có một trường hợp nào bị nhiễm độc gan do dầu cá được ghi nhận trong các y văn thế giới. Vai trò bảo vệ gan hoặc giảm nhiễm mỡ  trong gan của dầu cá cũng chưa được khẳng định qua các nghiên cứu.
Theo Sức khỏe và đời sống
Bình luận ()
Lựa chọn dịch vụ
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!