Các tin tức tại MEDlatec
Cách nhận biết viêm động mạch khu trú thái dương
Nguyên nhân gây bệnh Horton
Có nhiều thuyết khác nhau về bệnh Horton: Horton và Frangenheim cho rằng, bệnh do vi khuẩn đặc hiệu nên xếp vào nhóm bệnh u hạt nhiễm khuẩn (granulome infecteeusr); Zeek, Morrison Abithol cho là dị ứng quá mẫn nên xếp vào nhóm những bệnh mạch máu do dị ứng; Miehlke lại xếp vào nhóm bệnh tạo keo. Gần đây, Sauerruch, Dorstelman... thiên về giả thiết Horton là bệnh tự miễn; một số tác giả cho là di truyền, do virut viêm gan B và Treponema pallidum.
Cơ chế gây bệnh chưa được xác định rõ nhưng nhiều giả thuyết đã thừa nhận yếu tố di truyền theo gen và cơ chế tự miễn dịch thông qua một số xét nghiệm đặc hiệu; Do hiện tượng tự miễn dịch làm viêm lớp chun trong của nhiều động mạch, đặc biệt là động mạch thái dương nông và các nhánh của động mạch cảnh ngoài.
Một số biểu hiện bệnh
Bệnh khởi phát và tiến triển kín đáo. Các triệu chứng về mắt gặp nhiều theo thứ tự là: phù nề gai thị; tắc động mạch võng mạc trung tâm; nhìn đôi; thị trường thu hẹp; ám điểm trung tâm, đau hố mắt. Kèm theo các biểu hiện: nhức đầu, đau cơ khớp, đau vùng thắt lưng, cơ đai vai; sốt; hội chứng thiếu máu...
Đau đầu, nhất là ở vùng thái dương: đau đầu là triệu chứng nổi bật nhất, điển hình là đau ở vùng thái dương, thường là đau một bên, đôi khi cả hai bên. Cơn đau xuất hiện một cách tự nhiên hay do một kích thích dù chỉ là rất nhẹ vào da đầu như chải đầu, đeo kính, gội đầu... Ðau có tính chất dai dẳng, cảm giác tê buốt như kim châm dưới da đầu, từ vị trí khởi điểm ở thái dương đau có thể lan ra cả vùng trán, hốc mắt hoặc đỉnh chẩm cùng bên, đau tăng lên khi lạnh, đau nhiều về đêm làm bệnh nhân mất ngủ. Thỉnh thoảng có những cơn đau kịch phát dữ dội như khoan, dùi ở vùng thái dương làm người bệnh không chịu nổi phải lấy tay ôm đầu vật vã, kêu la, mỗi cơn đau kịch phát này kéo dài 2 - 3 giờ, trung bình 1 - 2 cơn/ngày. Quan sát thấy vùng thái dương của bệnh nhân hơi sưng nề, da đỏ, sờ vào nóng hơn các vùng khác, đồng thời có cảm giác thấy một đoạn mạch máu dày, cứng, ngoằn ngoèo, mạch đập yếu hoặc không đập, ấn rất đau. Đau tăng lên khi lạnh, đau nhiều về đêm làm bệnh nhân mất ngủ.
Tất cả những triệu chứng trên là biểu hiện của viêm động mạch thái dương nông, tuy nhiên ở đầu ngoài động mạch thái dương bị tổn thương thì một số động mạch khác như động mạch mắt, chẩm và động mạch mặt cũng bị viêm làm cho bệnh nhân đau.
Tổn thương động mạch mắt, chẩm và đặc biệt là động mạch mặt cũng bị viêm gây thiếu máu cục bộ ở những cơ nhai làm cho bệnh nhân đau nhiều khi nhai, giảm hoặc hết đau khi ngừng nhai. Người ta gọi đây là triệu chứng khập khễnh của hàm. Ngoài ra, một số bệnh nhân còn đau cả lưỡi, họng, nuốt, nói khó do tổn thương những động mạch chi phối vùng đó.
Triệu chứng ở mắt: những biểu hiện thường gặp là sợ ánh sáng, nhìn đôi, lác mắt (do liệt cơ vận nhãn), mù thoảng qua, màn sương mù trước mắt, ảo thị, rối loạn thị trường... và cuối cùng là mù hẳn. Những biến chứng này có thể xuất hiện đột ngột, tiến triển nhanh, không hồi phục làm mất thị lực chỉ trong vòng vài giờ đến vài ngày nếu không được điều trị kịp thời.
Mất ngủ, chán ăn, gầy sút và sốt, đôi khi hâm hấp sốt, có khi sốt rất cao. Suy nhược, chán ăn, gầy sút.
Giả viêm đa khớp gốc chi: có dấu hiệu thâm nhiễm viêm ở những cơ đai, nhất là đai vai: đau cân đối hai bên, có khi bệnh nhân phải nằm liệt giường nhưng không hạn chế vận động các khớp và không có tổn thương xương khớp trên hình ảnh Xquang; rất nhạy cảm với những thuốc chống viêm corticoid và không corticoid.
Một số bệnh nhân chỉ có duy nhất một triệu chứng sốt đơn độc kéo dài mà không tìm thấy nguyên nhân gì. Một số trường hợp khác lại có biểu hiện giả viêm đa khớp gốc chi, người bệnh đau nhiều khớp, đặc biệt là đau khớp vai hai bên, song không bị hạn chế vận động khớp, những dấu hiệu viêm khớp này thường xuất hiện trước hoặc đi kèm theo triệu chứng đau đầu.
Các triệu chứng khác ít gặp và dễ nhầm với các bệnh khác như: nhồi máu não, viêm dây thần kinh, phồng động mạch chủ, thiểu năng động mạch chủ hay động mạch vành; bệnh phế quản, phổi; viêm động mạch ngoài sọ và trong sọ, viêm động mạch ở các chi. Bệnh Horton dễ bị bỏ sót ở các thể bệnh như: toàn thân suy sụp dần; sốt đơn thuần kéo dài; đi khập khiễng cách hồi; cơn đau thắt hay tai biến thiếu máu cục bộ ở những cơ quan do ngành lớn hay thân động mạch chủ chi phối.
Tuy nhiên, để chẩn đoán chính xác bệnh Horton ở NCT thì cần phải làm thêm một số xét nghiệm như máu lắng tăng, rối loạn đông máu, rối loạn miễn dịch và đặc biệt là sinh thiết động mạch thái dương có chọn lọc dựa trên siêu âm Doppler hoặc chụp động mạch cảnh ngoài để kết quả chính xác hơn.
Điều trị bệnh càng sớm càng tránh được nhiều biến chứng
Điều trị bệnh Horton, thuốc corticoid (như prednison, solu-medrol) là biện pháp điều trị duy nhất có hiệu quả, điều trị bằng corticoid càng sớm thì càng tránh được những biến chứng về mắt cho NCT, có thể nói khi người thầy thuốc đã nghi ngờ là bệnh Horton thì không cần chờ kết quả sinh thiết động mạch thái dương nữa mà nên điều trị corticoid ngay cho bệnh nhân.
Liệu pháp corticoid là biện pháp điều trị duy nhất có hiệu quả. Những biến chứng nguy hiểm của bệnh Horton có thể tránh được nếu bắt đầu điều trị nhanh, coi như cấp cứu khi đã xuất hiện những tổn thương về mắt. Chỉ khi nào thị lực mới mất một phần thì liệu pháp corticoid còn có khả năng hồi phục thị lực, nhưng đã mất hoàn toàn thị lực thì không hồi phục.
Hiệu quả điều trị có tác dụng ngay, giảm sốt, giảm đau trong ngày; viêm nhiễm giảm dần và tốc độ lắng hồng cầu trở lại bình thường trong 1 - 2 tháng. Phải dùng corticoid hằng ngày, một lần vào buổi sáng, còn nếu dùng cách nhật kém hiệu quả.
Trong một số trường hợp, người ta có thể dùng một vài thuốc khác như dapson hoặc thuốc chống viêm non-steroid kết hợp với corticoid trong giai đoạn điều trị củng cố. Ngoài ra, nếu có viêm các động mạch lớn thì phải dùng cả thuốc chống đông để dự phòng huyết khối. Tuy nhiên, không được tự ý dùng thuốc corticoid mà phải dùng theo chỉ dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
Nguồn: suckhoedoisong.vn
Lựa chọn dịch vụ
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!