Các tin tức tại MEDlatec
Tế bào Hargraves (tế bào LE): vai trò trong chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống
Bệnh Lupus
Bất cứ ai cũng có thể bị lupus bất cứ khi nào, nhưng bệnh này gặp phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới và cũng gặp phổ biến hơn ở những người châu Phi, châu Á, Tây Ban Nha và người Mỹ gốc bản địa. SLE thường gặp nhất ở những người trong độ tuổi từ 15 - 45 tuổi, mặc dù trẻ nhỏ và người lớn tuổi cũng có thể có bệnh lupus.
Hình ảnh minh họa 1 bệnh nhân bị bệnh lupus
Nguyên nhân của bệnh lupus hiện chưa được hiểu đầy đủ. Lupus được cho là liên quan đến một thành phần di truyền và một chất kích hoạt có thể liên quan đến yếu tố môi trường, một số loại thuốc, nhiễm trùng như virus hoặc hormon. Lupus có thể cùng tồn tại với các rối loạn tự miễn dịch khác, chẳng hạn như hội chứng Sjogren, thiếu máu tán huyết, viêm tuyến giáp và xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát (Immune thrombocytopenic purpura: ITP).
Các tế bào lupus ban đỏ (LE) đã được mô tả lần đầu tiên bởi Hargraves, Richmond và Morton từ năm I948, vì vậy cũng còn được gọi là các tế bào Hargraves (Hargraves MM, 1949 [1]). Tế bào LE đã được thấy trong tủy xương của bệnh nhân lupus (Hepburn AL, 2001 [2]).
Sinh học của tế bào LE
Các tế bào lupus ban đỏ (LE) được tạo thành in vitro bằng cách cho các tế bào máu hoặc tủy xương của một người bị lupus ban đỏ tiếp xúc với huyết tương của họ trong một thời gian và ;r một nhiệt độ nhất định.
Cơ chế tạo thành tế bào LE in vitro gồm 4 giai đoạn (phases):
- Giai đoạn 1: bạch cầu bị tổn thương, nhân tế bào bị đẩy ra ngoài.
- Giai đoạn 2: nhân tế bào gắn với các kháng thể kháng nhân (anti-nuclear IgG) tạo thành thể LE, là một nhân đang thoái hóa. Nhân thoái hóa là một khối thuần nhất tròn, to, màu gạch non khi nhuộm Gemsa.
- Giai đoạn 3: thể LE bị các bạch cầu đa nhân thực bào
- Giai đoạn 4: các bạch cầu đa nhân thực bào thể LE tạo thành các tế bào LE: các tế bào LE được tạo thành do bạch cầu đa nhân trung tính thực bào một nhân đang thoái hóa, các phần nhân của bạch cầu thực bào bị đẩy dạt ra xung quanh khối thuần nhất tạo nên hình hoa hồng. Bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính thực bào trở nên mờ nhạt (Hình 2).
Hình 2. Sơ đồ sự tạo thành tế bào LE in vitro
Xét nghiệm tế bào LE có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh lupus ban đỏ hệ thống (Tan EM, 1982 [5]).
Chỉ định xét nghiệm tế báo LE
Xét nghiệm tế bào LE có thể được chỉ định ở những người có các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh lupus như:
- Đau cơ
- Viêm khớp như đau ở một hoặc nhiều khớp (nhưng không có hoặc có rất ít tổn thương khớp)
- Phát ban đỏ, đặc biệt là giống như một con bướm trên mũi và má
- Sốt
- Mệt mỏi dai dẳn
- Các tuyến bị sưng
- Nhạy cảm với ánh sáng mặt trời
- Hiện tượng Raynaud
- Rụng tóc
- Tức ngực
- Thiếu máu
- Loét miệng
- Viêm và tổn thương các cơ quan và mô, bao gồm cả thận, phổi, tim, màng tim, hệ thần kinh trung ương, và các mạch máu.
Xét nghiệm tế bào LE đã từng thực hiện để chẩn đoán bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) nhưng gần đây việc chẩn đoán SLE đã được thay thế bằng xét nghiệm kháng thể kháng nhân (ANA).
Năm 2012, Những trung tâm cộng tác quốc tế về lupus hệ thống năm ( Systemic International Collaborating Clinics - SLICC 2012 ) đã đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Lupus ban đỏ hệ thống gồm:
1. Tiêu chuẩn lâm sàng |
2. Tiêu chuẩn miễn dịch |
1. Lupus da cấp |
1. ANA |
2. Lupus da mạn |
2. Anti-DNA |
3. Loét miệng hay mũi |
3. Anti-Sm |
4. Rụng tóc không sẹo |
4. KT Antiphospholipid |
5. Viêm khớp |
5. Giảm bổ thể (C3, C4) |
6. Viêm thanh mạc |
6. Test Coombs trực tiếp (Không được tính khi có sự tồn tại của thiếu máu tan huyết) |
7. Thận |
|
8. Thần kinh |
|
9. Thiếu máu tan huyết |
|
10. Giảm bạch cầu |
|
11. Giảm tiểu cầu (<100.000/mm3) |
|
Chẩn đoán lupus ban đỏ hệ thống khi có ≥ 4 tiêu chuẩn (có ít nhất 1 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 tiêu chuẩn cận lâm sàng) hoặc bệnh thận lupus được chứng minh trên sinh thiết kèm với ANA hoặc anti-DNA. |
Giá trị tham chiếu
Xét nghiệm tế bào Lupus ban đỏ (LE) có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các chất liệu sau đây:
- Tủy xương chống đông bằng heparin
- Máu tĩnh mạch chống đông bằng heparin
- Máu tĩnh mạch chống đông bằng oxalate
- Máu tĩnh mạch được tách fibrin
- Máu tĩnh mạch được làm vón cục
- Yếu tố LE và các tế bào của người cho (Lachmann PJ, 1961 [3]).
Việc lấy tủy xương thường gây đau cho bệnh nhân; do đó, máu tĩnh mạch là một sự thay thế thích hợp. Mẫu máu tĩnh mạch không được điều trị được để tạo cục máu đông (từ phút 20-120) và loại bỏ huyết thanh. Cục máu đông còn lại được chuyển qua một lưới thép và ly tâm trong 5 phút để có được một lớp Buffy. Sau đó áo Buffy này được phết lên một lam kính để tìm tế bào LE (Ogryzlo MA, 1956 [4]).
Một phết tế bào (smear) được coi là (+) tính khi ≥ 10 tế bào LE đặc trưng được thấy trong 15 phút quan sát, kết hợp với sự hiện diện của các thể vô định hình, khối lượng hạt nhân ngoài tế bào.
Các phát hiện (-) tính về xét nghiệm tế bào LE có thể cho phép loại trừ chẩn đoán bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE).
Ý nghĩa lâm sàng
Một xét nghiệm tế bào lupus ban đỏ (LE) được coi là (+) tính khi có khoảng 2% -30% của các tế bào nhìn thấy trên một vi trường của tiêu bản (slide) trong số các bạch cầu là những tế bào LE.
Tính chính xác của xét nghiệm phụ thuộc vào khả năng kỹ thuật và quan sát của kỹ thuật viên. Trong quá trình đọc tiêu bản, kỹ thuật viên cần tránh nhầm lẫn với tế bào Tart. Tế bào Tart là một tế bào đơn nhân (monocyte/ mô bào) có chất nhân, không to bằng tế bào LE, không có giá trị chẩn đoán và điều quan trọng là không được nhầm với tế bào LE (Hình 3).
Hình 3. Sự khác nhau giữa tế bào LE và tế bào Tart.
Xét nghiệm tế bào LE là (+) tính ở 50% - 75% số bệnh nhân bị lupus.
Tuy nhiên, điều cần chú ý là xét nghiệm tế bào LE cũng có thể (+) tính trong các bệnh và tình trạng khác như: viêm khớp dạng thấp, viêm gan mãn tính (lupoid), xơ cứng bì, viêm da, polyarteritis nodosa, thiếu máu tán huyết mắc phải và bệnh Hodgkin. Nó cũng có thể (+) tính ở những người sử dụng các thuốc như phenylbutazone và hydralazine.
KẾT LUẬN
- 1.Tế bào Hargraves (hay tế bào lupus ban đỏ: LE) là loại tế bào
- Tế bào LE được tạo thành bằng cách cho các tế bào máu hoặc tủy xương của một người bị lupus ban đỏ tiếp xúc với huyết tương của họ
- Tế bào LE được sử dụng để chẩn đoán SLE.
- Xét nghiệm tế bào LE được chỉ định khi bệnh nhân có những dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh lupus ban đỏ hệ thống.
- Giá trị tham chiếu của tế bào LE là (+) tính hoặc (-) tính.
- Xét nghiệm tế bào LE là (+) tính ở 50% - 75% số bệnh nhân bị lupus, tuy nhiên, xét nghiệmh này cũng (+) tính ở một số bệnh và tình trạng khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hargraves MM. Production in vitro of the LE cell phenomenon: use of normal bone marrow elements and blood plasma from patients with acute disseminated lupus erythematosus. Proc Staff Meet Mayo Clin 1949; 24: 234-237.
- Hepburn AL. The LE cell. Rheumatology, 2001; 40(7): 826-827.
- Lachmann PJ. A two-stage indirect LE cell test. Immunology 1961; 4: 142-152.
- Ogryzlo MA. The LE (lupus erythematosus) cell reaction. Can Med Assoc J 1956; 75(12): 980-993.
- Tan EM, Cohen AS, Fries JF et al. The 1982 revised criteria for the classification of systemic lupus erythematosus. Arthritis Rheum1982; 25: 1271-1277.
Lựa chọn dịch vụ
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!