Bác sĩ: Ths.BSNT Trần Hiền
Chuyên khoa:
Năm kinh nghiệm:
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân, thường được gọi là "Mononucleosis" hoặc "bệnh hôn- kissing disease", là một bệnh lý truyền nhiễm chủ yếu do vi-rút Epstein-Barr (EBV) gây ra. Bệnh này thường xuất hiện và lưu hành chủ yếu ở lứa tuổi thanh thiếu niên và thanh niên, đặc biệt là sinh viên đại học. Thuật ngữ "bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng" lần đầu tiên được Thomas Peck Sprunt và Frank Alexander Evans đặt ra vào năm 1920 trong một mô tả lâm sàng được công bố trên Bản tin của Bệnh viện Johns Hopkins.. Bản thân virus Epstein-Barr đã được Michael Anthony Epstein và Yvonne Barr tại Đại học Bristol xác định vào năm 1964. Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm trùng thường lây lan qua dịch tiết của cơ thể, đặc biệt là nước bọt, đó là lý do tại sao nó được gọi là "bệnh hôn". Tuy nhiên, nó cũng có thể lây truyền qua việc dùng chung đồ uống, thức ăn hoặc vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng.
EBV là vi rút có tỉ lệ lưu hành cao trên toàn cầu, ước tính khoảng 90% dân số trưởng thành trên thế giới có huyết thanh dương tính với EBV. Ở các nước phát triển, nhiễm EBV nguyên phát có xu hướng xảy ra ở độ tuổi muộn hơn so với các nước đang phát triển. Tại Mỹ tỷ lệ mắc IM mới ước tính khoảng 500 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm. Thanh niên từ 15-24 tuổi có tỷ lệ mắc mới cao nhất, với 200 đến 800 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm. Trong nhóm sinh viên đại học và quân nhân tỷ lệ mắc mới hàng năm cũng ở mức cao có thể lên tới 11 đến 48 trường hợp trên 1.000 người. Tỷ lệ mắc mới có triệu chứng ở người da trắng cao hơn khoảng 30 lần so với người da đen, có thể là do phơi nhiễm EBV sớm hơn ở các nhóm kinh tế xã hội thấp hơn. Trẻ em thuộc nhóm thu nhập thấp nhất có tỷ lệ nhiễm huyết thanh là 81,0% so với 53,9% ở nhóm thu nhập cao nhất. Tại Tây Ban Nha năm 2022 tỷ lệ lưu hành chung là 0,6 trường hợp trên 1.000 bệnh nhân, với tỷ lệ lưu hành cao nhất (1,72 trên 1.000) ở nhóm tuổi 15-34.
Cách thức lây truyền của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm trùng chủ yếu qua các cách thức sau:
Các phương thức lây truyền khác ít phổ biến hơn như truyền máy, ghép tạng đặc, cấy ghép tế bào tạo máu.
Thời gian nguy cơ lây nhiễm của IM cho những người tiếp xúc với bệnh nhân là bao lâu?
Thời kỳ lây nhiễm của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng rất khác nhau và có thể khá dài. Dưới đây là những điểm chính liên quan đến thời kỳ lây nhiễm của bệnh:
Đáp ứng miễn dịch của cơ thể với virus EBV trong bệnh lí tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
EBV xâm nhập vào cơ thể qua hầu họng, điển hình là qua nước bọt, ban đầu lây nhiễm và nhân lên trong các tế bào biểu mô của tuyến nước bọt và hầu họng. EBV sau đó xâm nhâp và lây nhiễm cho tế bào lympho B, chủ yếu thông qua thụ thể CD21 trên bề mặt tế bào lympho B. EBV hoạt động như một yếu tố kích thích phân bào của tế bào B thông qua protein như EBNA1 và LMP1, khiến nhiều tế bào lympho B trở thành tế bào plasma sản xuất kháng thể và làm bất tử những tế bào lympho B nhớ khác. Các tế bào lympho B bị nhiễm vi rút sẽ di chuyển và làm phát tán vi rút EBV khắp hệ thống liên võng nội mô, bao gồm gan, lách và các hạch bạch huyết ngoại vi. Hệ thống miễn dịch của cơ thể người bệnh phản ứng lại bằng các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào tăng cường số lượng tế bào lympho T. Tế bào TCD8+ gây độc tế bào sẽ nhắm mục tiêu là các tế bào lympho B bị nhiễm vi rút, phản ứng miễn dịch này này dẫn đến việc hình thành các tế bào lympho không điển hình, được gọi là
Cơ chế bệnh sinh của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
tế bào Downey. Bên cạnh tế bào TCD8+ các tế bào TCD4+ cũng có vai trò quan trong trong đáp ứng với vi rút EBV, tế bào TCD4+ hạn chế đáng kể sự tăng sinh của tế bào B CD23+ mới bị lây nhiễm và hoạt hoá. Nhiều tế bào T CD4+ đặc hiệu EBV biểu hiện perforin và granzyme B, cho thấy tiềm năng gây độc tế bào. Những tế bào này có thể nhận biết và ly giải các tế bào B bị nhiễm EBV, đặc biệt là những tế bào biểu hiện kháng nguyên muộn của vi rút EBV. TCD4+ cũng có khả năng biểu hiện kiểu hình của Th1 giúp sản xuất ra các cytokine như IFN-γ, TNF-α và IL-2 giúp điều hoà các phản ứng miễn dịch chống lại vi rút EBV. Tế bào T CD4+ phản ứng với nhiều loại kháng nguyên EBV hơn so với tế bào T CD8+, bao gồm cả kháng nguyên muộn và kháng nguyên ly giải. Sự nhận diện được phổ rộng các loại kháng nguyên này của TCD4+ giúp tăng cường việc kiểm soát miễn dịch với vi rút EBV. Trong pha nhiễm trùng cấp tính 90% trường hợp hệ thống miễn dịch của bệnh nhân sản xuất ra các kháng thể dị loại (Heterophile Antibodies) chống lại các các protein cấu trúc của EBV, các loại kháng thể dị loại này có vai trò quan trọng trong chẩn đoán nhiễm EBV trên lâm sàng.
Trong một số trường hợp bệnh nhiễm vi rút EBV không có triệu chứng, vi rút sẽ tồn tại trong vùng hầu họng (amidan) và trong các tế bào lympho B ở dạng không hoạt động và tái hoạt động sau đó. Cơ chế của các trường hợp này liên quan đến giảm hoặc ức chế hoàn toàn biểu hiện các protein kháng nguyên của vi rút giúp chúng thoát khỏi sự kiểm soát của miễn dịch (cơ chế này đặc biệt quan trọng cho sự tồn tại của EBV trong tế bào B nhớ). Bên canh đó sự điều hoà giảm biểu hiện của MHC lớp I, MHC lớp II cũng như các phân tử điểm kiểm soát miễn dịch như PD-1, PDL-1 trên các tế bào nhiễm vi rút dẫn tới giảm trình diện kháng nguyên vi rút cho các tế bào miễn dịch đặc hiệu và hoạt hoá các tế bào miễn dịch đặc hiệu này. EBV cũng tác động làm giảm hoạt động của hệ thống miễn dịch tự nhiên thông qua các protein do EBV mã hoá hay các phân tử microRNA như miR-BART15 gây giảm bài tiết các cytokine IFN-γ,TNF-α, các phức hợp phản ứng viêm NLRP3 chống lại vi rút EBV.
Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng biểu hiện một loạt các triệu chứng thường tiến triển dần dần trong thời gian ủ bệnh từ 4-6 tuần. Các triệu chứng phổ biến nhất bao gồm:Giai đoạn khởi phát:Mệt mỏi cực độ: Đây thường là triệu chứng nổi bật nhất, kéo dài trong vài tuần và đôi khi kéo dài hàng tháng.Giai đoạn cấp tính: Đau họng: Thường nặng và có thể kèm theo sưng amidan, đôi khi có mảng trắng hoặc mủ. Triệu chứng này thường kéo dài trong 6-10 ngày.Sốt: Có thể dao động từ nhẹ đến cao, thường nhiệt độ của bệnh nhân từ 102°F đến 104°F (38,9°C đến 40°C).Sưng hạch bạch huyết: Đặc biệt dễ nhận thấy ở cổ và nách, thường đau khi chạm vào.Nhức đầu và đau nhức cơ thể: Cảm giác khó chịu nói chung và đau cơ là phổ biến.Lách to: Xảy ra ở khoảng một nửa số trường hợp, làm tăng nguy cơ vỡ lách.Gan to: Ít gặp hơn so với phì đại lá lách nhưng có thể xảy ra.Phát ban trên da: Có thể xuất hiện trong một số trường hợp, đặc biệt nếu thuốc kháng sinh như amoxicillin bị kê nhầm.
Các triệu chứng của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
Khó chịu: Cảm giác không khỏe nói chung có thể kéo dài hàng tuần.Chán ăn: Thường kèm theo sụt cân nhẹ.
Giai đoạn phục hồi (3-6 tháng):Các triệu chứng giai đoạn cấp tính cải thiện dần, một số trường hợp bệnh nhân có mệt mỏi kéo dài. Hầu hết mọi người hồi phục trong vòng 2-4 tuần, nhưng tình trạng mệt mỏi và sưng hạch bạch huyết có thể kéo dài thêm vài tuần nữa. Trong một số ít trường hợp, các triệu chứng có thể kéo dài 6 tháng hoặc lâu hơn, đặc biệt là mệt mỏi. Điều quan trọng cần lưu ý là mức độ nghiêm trọng và thời gian của các triệu chứng có thể khác nhau đáng kể giữa các cá nhân, một số người bị nhiễm trùng rất nhẹ hoặc thậm chí không có triệu chứng.
Để giảm nguy cơ mắc bệnh bạch cầu đơn nhân:
Giáo dục: tuyên truyền giáo dục cho thanh thiếu niên và thanh niên về những rủi ro liên quan đến các hoạt động có thể lây lan vi-rút.
Chẩn đoán bệnh bạch cầu đơn nhân thường bao gồm sự kết hợp giữa đánh giá lâm sàng và xét nghiệm.
Bao gồm hỏi bệnh sử của bệnh nhân phát hiện các triệu chứng cơ năng và khám thực thể đánh giá các dấu hiệu nhiễm trùng, hạch bạch huyết, gan, lách.
+ Giai đoạn khởi phát sớm(1-2 tuần từ khi khởi phát triệu chứng):
+ Giai đoạn cấp tính (2-6 tuần sau khi khởi phát triệu chứng):
+ Giai đoạn hồi phục (1-4 tháng):
+ Giai đoạn muộn (4-6 tháng trở lên):
Chẩn đoán phân biệt
Nhiều bệnh do virus khác và một số trường hợp do rickettsia có đặc điểm tương tự như EBV. Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh lí nhiễm trùng khác như cytomegalovirus, virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), HPV vi rút típ 6, viêm gan B và các bệnh do ve truyền như bệnh Lyme. HIV nguyên phát có thể biểu hiện bằng loét niêm mạc da; hơn nữa, phát ban da thường thấy ở HIV nguyên phát và ít phổ biến hơn nhiều ở bệnh bạch cầu đơn nhân.
Điều trị
Điều trị bệnh lí tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng chủ yếu liên quan đến liệu pháp giảm nhẹ triệu chứng và nâng cao thể trạng của bệnh nhân bao gồm:
Bệnh nhân cần nghỉ ngơi tuyệt đối trong giai đoạn cấp tính của bệnh và uống đủ nước đặc biệt nên bổ sung các loại nước ép trái cây hoặc nước điện giải (oresol) để hỗ trợ hạ sốt và giảm đau họng ngăn ngừa mất nước.
Acetaminophen (Paracetamol) hoặc ibuprofen (Advil, Motrin) để trị sốt, đau họng và đau nhức cơ thể. Tránh dùng aspirin ở trẻ em và thanh thiếu niên do nguy cơ mắc hội chứng Reye.
Súc miệng bằng nước muối ấm (¼ thìa cà phê muối trong 240mL nước ấm) vài lần trong ngày. Sử dụng viên ngậm hoặc thuốc xịt họng có chứa benzocain hoặc phenol.
Duy trì chế độ ăn uống lành mạnh để hỗ trợ hệ thống miễn dịch. Tránh các hoạt động gắng sức và các môn thể thao đối kháng để ngăn ngừa nguy cơ vỡ lách.
Các biện pháp dự phòng bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng
Tiên lượng
Bệnh bạch cầu đơn nhân thường tự khỏi trong vòng 3-4 tuần. Mệt mỏi và khó chịu có thể kéo dài trong vài tháng, nhưng đại đa số bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn. Các biến chứng nghiêm trọng không phổ biến nhưng có thể bao gồm: Vỡ lách (biến chứng gây tử vong phổ biến nhất), biến chứng liên quan đến hệ thần kinh trung ương (ví dụ, viêm màng não, viêm não), tắc nghẽn đường thở do sưng hạch bạch huyết. Hầu hết bệnh nhân hồi phục mà không để lại di chứng lâu dài đáng kể.
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!