Từ điển bệnh lý

Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân : Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ngày 29-08-2025

Tổng quan Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân

Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân, thường được gọi là "Mononucleosis" hoặc "bệnh hôn- kissing disease", là một bệnh lý truyền nhiễm chủ yếu do vi-rút Epstein-Barr (EBV) gây ra. Bệnh này thường xuất hiện và lưu hành chủ yếu ở lứa tuổi thanh thiếu niên và thanh niên, đặc biệt là sinh viên đại học. Thuật ngữ "bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng" lần đầu tiên được Thomas Peck Sprunt và Frank Alexander Evans đặt ra vào năm 1920 trong một mô tả lâm sàng được công bố trên Bản tin của Bệnh viện Johns Hopkins.. Bản thân virus Epstein-Barr đã được Michael Anthony Epstein và Yvonne Barr tại Đại học Bristol xác định vào năm 1964. Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm trùng thường lây lan qua dịch tiết của cơ thể, đặc biệt là nước bọt, đó là lý do tại sao nó được gọi là "bệnh hôn". Tuy nhiên, nó cũng có thể lây truyền qua việc dùng chung đồ uống, thức ăn hoặc vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng. 

EBV là vi rút có tỉ lệ lưu hành cao trên toàn cầu, ước tính khoảng 90% dân số trưởng thành trên thế giới có huyết thanh dương tính với EBV. Ở các nước phát triển, nhiễm EBV nguyên phát có xu hướng xảy ra ở độ tuổi muộn hơn so với các nước đang phát triển. Tại Mỹ tỷ lệ mắc IM mới ước tính khoảng 500 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm. Thanh niên từ 15-24 tuổi có tỷ lệ mắc mới cao nhất, với 200 đến 800 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm. Trong nhóm sinh viên đại học và quân nhân tỷ lệ mắc mới hàng năm cũng ở mức cao có thể lên tới 11 đến 48 trường hợp trên 1.000 người. Tỷ lệ mắc mới có triệu chứng ở người da trắng cao hơn khoảng 30 lần so với người da đen, có thể là do phơi nhiễm EBV sớm hơn ở các nhóm kinh tế xã hội thấp hơn. Trẻ em thuộc nhóm thu nhập thấp nhất có tỷ lệ nhiễm huyết thanh là 81,0% so với 53,9% ở nhóm thu nhập cao nhất. Tại Tây Ban Nha năm 2022 tỷ lệ lưu hành chung là 0,6 trường hợp trên 1.000 bệnh nhân, với tỷ lệ lưu hành cao nhất (1,72 trên 1.000) ở nhóm tuổi 15-34.

Cách thức lây truyền của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân do nhiễm trùng chủ yếu qua các cách thức sau:

  • Tiếp xúc trực tiếp đường miệng: Hôn nhau là con đường lây truyền chính ở lứa tuổi thanh thiếu niên
  • Dùng chung các vật dụng cá nhân: Virus có thể lây lan qua việc sử dụng chung các vật dụng cá nhân như dụng cụ ăn uống, đồ uống, son môi, khăn mặt, bàn chải đánh răng,…
  • Lây qua đường giọt bắn: Các giọt bắn phát sinh khi người mang virus EBV ho hoặc hắt hơi có thể là nguồn lây truyền của bệnh.

Các phương thức lây truyền khác ít phổ biến hơn như truyền máy, ghép tạng đặc, cấy ghép tế bào tạo máu.

 Thời gian nguy cơ lây nhiễm của IM cho những người tiếp xúc với bệnh nhân là bao lâu?

Thời kỳ lây nhiễm của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng rất khác nhau và có thể khá dài. Dưới đây là những điểm chính liên quan đến thời kỳ lây nhiễm của bệnh:

  1. Giai đoạn lây nhiễm ban đầu: Những người mắc bệnh IM có khả năng lây nhiễm cao trong thời kỳ ủ bệnh, kéo dài khoảng 4-7 tuần trước khi xuất hiện các triệu chứng
  2. Giai đoạn có triệu chứng: Các bệnh nhân duy trì khả năng lây nhiễm trong suốt thời kì các triệu chứng bệnh xuất hiện. Giai đoạn này thường kéo dài 2-4 tuần hoặc lâu hơn
  3. Thời gian lây nhiễm kéo dài: Sau khi các triệu chứng giảm bớt, người bệnh IM vẫn có thể tiếp tục lây nhiễm trong vài tháng. Trung bình, hầu hết các bệnh nhân vẫn có khả năng lây nhiễm trong khoảng 6 tháng sau khi khởi phát bệnh. Trong một số trường hợp, một người có thể vẫn có khả năng lây nhiễm tới 18 tháng sau lần nhiễm bệnh đầu tiên.
  4. Người lành mang mầm bệnh suốt đời: Virus Epstein-Barr (EBV), nguyên nhân gây ra hầu hết các trường hợp mắc bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng, vẫn tồn tại trong cơ thể suốt đời. Theo định kỳ, một lượng nhỏ vi rút có thể được tìm thấy trong cổ họng của những người khỏe mạnh mang vi rút, làm tăng nguy cơ lây nhiễm cho người xung quanh mặc dù người đó không có triệu chứng.

Đáp ứng miễn dịch của cơ thể với virus EBV trong bệnh lí tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng

EBV xâm nhập vào cơ thể qua hầu họng, điển hình là qua nước bọt, ban đầu lây nhiễm và nhân lên trong các tế bào biểu mô của tuyến nước bọt và hầu họng. EBV sau đó xâm nhâp và lây nhiễm cho tế bào lympho B, chủ yếu thông qua thụ thể CD21 trên bề mặt tế bào lympho B. EBV hoạt động như một yếu tố kích thích phân bào của tế bào B thông qua protein như EBNA1 và LMP1, khiến nhiều tế bào lympho B trở thành tế bào plasma sản xuất kháng thể và làm bất tử những tế bào lympho B nhớ khác. Các tế bào lympho B bị nhiễm vi rút sẽ di chuyển và làm phát tán vi rút EBV khắp hệ thống liên võng nội mô, bao gồm gan, lách và các hạch bạch huyết ngoại vi. Hệ thống miễn dịch của cơ thể người bệnh phản ứng lại bằng các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào tăng cường số lượng tế bào lympho T. Tế bào TCD8+ gây độc tế bào sẽ nhắm mục tiêu là các tế bào lympho B bị nhiễm vi rút, phản ứng miễn dịch này này dẫn đến việc hình thành các tế bào lympho không điển hình, được gọi là 

Cơ chế bệnh sinh của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng

Cơ chế bệnh sinh của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng 

tế bào Downey. Bên cạnh tế bào TCD8+ các tế bào TCD4+ cũng có vai trò quan trong trong đáp ứng với vi rút EBV, tế bào TCD4+ hạn chế đáng kể sự tăng sinh của tế bào B CD23+ mới bị lây nhiễm và hoạt hoá. Nhiều tế bào T CD4+ đặc hiệu EBV biểu hiện perforin và granzyme B, cho thấy tiềm năng gây độc tế bào. Những tế bào này có thể nhận biết và ly giải các tế bào B bị nhiễm EBV, đặc biệt là những tế bào biểu hiện kháng nguyên muộn của vi rút EBV. TCD4+ cũng có khả năng biểu hiện kiểu hình của Th1 giúp sản xuất ra các cytokine như IFN-γ, TNF-α và IL-2 giúp điều hoà các phản ứng miễn dịch chống lại vi rút EBV. Tế bào T CD4+ phản ứng với nhiều loại kháng nguyên EBV hơn so với tế bào T CD8+, bao gồm cả kháng nguyên muộn và kháng nguyên ly giải. Sự nhận diện được phổ rộng các loại kháng nguyên này của TCD4+ giúp tăng cường việc kiểm soát miễn dịch với vi rút EBV. Trong pha nhiễm trùng cấp tính 90% trường hợp hệ thống miễn dịch của bệnh nhân sản xuất ra các kháng thể dị loại (Heterophile Antibodies) chống lại các các protein cấu trúc của EBV, các loại kháng thể dị loại này có vai trò quan trọng trong chẩn đoán nhiễm EBV trên lâm sàng. 

Trong một số trường hợp bệnh nhiễm vi rút EBV không có triệu chứng, vi rút sẽ tồn tại trong vùng hầu họng (amidan) và trong các tế bào lympho B ở dạng không hoạt động và tái hoạt động sau đó. Cơ chế của các trường hợp này liên quan đến giảm hoặc ức chế hoàn toàn biểu hiện các protein kháng nguyên của vi rút giúp chúng thoát khỏi sự kiểm soát của miễn dịch (cơ chế này đặc biệt quan trọng cho sự tồn tại của EBV trong tế bào B nhớ). Bên canh đó sự điều hoà giảm biểu hiện của MHC lớp I, MHC lớp II cũng như các phân tử điểm kiểm soát miễn dịch như PD-1, PDL-1 trên các tế bào nhiễm vi rút dẫn tới giảm trình diện kháng nguyên vi rút cho các tế bào miễn dịch đặc hiệu và hoạt hoá các tế bào miễn dịch đặc hiệu này. EBV cũng tác động làm giảm hoạt động của hệ thống miễn dịch tự nhiên thông qua các protein do EBV mã hoá hay các phân tử microRNA như miR-BART15 gây giảm bài tiết các cytokine IFN-γ,TNF-α, các phức hợp phản ứng viêm NLRP3 chống lại vi rút EBV. 


Triệu chứng Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân

Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng biểu hiện một loạt các triệu chứng thường tiến triển dần dần trong thời gian ủ bệnh từ 4-6 tuần. Các triệu chứng phổ biến nhất bao gồm:Giai đoạn khởi phát:Mệt mỏi cực độ: Đây thường là triệu chứng nổi bật nhất, kéo dài trong vài tuần và đôi khi kéo dài hàng tháng.Giai đoạn cấp tính: Đau họng: Thường nặng và có thể kèm theo sưng amidan, đôi khi có mảng trắng hoặc mủ. Triệu chứng này thường kéo dài trong 6-10 ngày.Sốt: Có thể dao động từ nhẹ đến cao, thường nhiệt độ của bệnh nhân từ 102°F đến 104°F (38,9°C đến 40°C).Sưng hạch bạch huyết: Đặc biệt dễ nhận thấy ở cổ và nách, thường đau khi chạm vào.Nhức đầu và đau nhức cơ thể: Cảm giác khó chịu nói chung và đau cơ là phổ biến.Lách to: Xảy ra ở khoảng một nửa số trường hợp, làm tăng nguy cơ vỡ lách.Gan to: Ít gặp hơn so với phì đại lá lách nhưng có thể xảy ra.Phát ban trên da: Có thể xuất hiện trong một số trường hợp, đặc biệt nếu thuốc kháng sinh như amoxicillin bị kê nhầm.

 Các triệu chứng của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng

 Các triệu chứng của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng

Khó chịu: Cảm giác không khỏe nói chung có thể kéo dài hàng tuần.Chán ăn: Thường kèm theo sụt cân nhẹ.

Giai đoạn phục hồi (3-6 tháng):Các triệu chứng giai đoạn cấp tính cải thiện dần, một số trường hợp bệnh nhân có mệt mỏi kéo dài. Hầu hết mọi người hồi phục trong vòng 2-4 tuần, nhưng tình trạng mệt mỏi và sưng hạch bạch huyết có thể kéo dài thêm vài tuần nữa. Trong một số ít trường hợp, các triệu chứng có thể kéo dài 6 tháng hoặc lâu hơn, đặc biệt là mệt mỏi. Điều quan trọng cần lưu ý là mức độ nghiêm trọng và thời gian của các triệu chứng có thể khác nhau đáng kể giữa các cá nhân, một số người bị nhiễm trùng rất nhẹ hoặc thậm chí không có triệu chứng.


Phòng ngừa Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân

Để giảm nguy cơ mắc bệnh bạch cầu đơn nhân:

  • Thực hành vệ sinh tốt ,rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước, tránh dùng chung đồ uống, đồ dùng và vật dụng cá nhân
  • Tránh tiếp xúc gần như tránh hôn hoặc tiếp xúc thân mật với người bị nhiễm bệnh, duy trì khoảng cách với những người được biết mắc bệnh bạch cầu đơn nhân
  • Tăng cường hệ thống miễn dịch: Áp dụng lối sống lành mạnh với chế độ ăn uống cân bằng và tập thể dục thường xuyên, đảm bảo ngủ đủ giấc và kiểm soát căng thẳng
  • Vệ sinh hô hấp: Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi, vứt bỏ khăn giấy đã sử dụng đúng cách

Giáo dục: tuyên truyền giáo dục cho thanh thiếu niên và thanh niên về những rủi ro liên quan đến các hoạt động có thể lây lan vi-rút.


Các biện pháp chẩn đoán Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân

Chẩn đoán bệnh bạch cầu đơn nhân thường bao gồm sự kết hợp giữa đánh giá lâm sàng và xét nghiệm.

  1. Đánh giá lâm sàng

Bao gồm hỏi bệnh sử của bệnh nhân phát hiện các triệu chứng cơ năng và khám thực thể đánh giá các dấu hiệu nhiễm trùng, hạch bạch huyết, gan, lách.

  1. Xét nghiệm
    • Tổng phân tích tế báo máu ngoại vi: Giúp đánh giá tình trạng nhiễm trùng đặc biệt xác nhận số lượng bạch cầu đơn nhân tăng (Mono, Lym).
    • Huyết đồ: Đánh giá hình thái các tế bào bạch cầu đơn nhân nhằm phát hiện các tế bào lympho có hình thái bất thường (tế bào Downey).
    • Xét nghiệm Monospot test: Đây là một xét nghiệm test nhanh nhằm phát hiện các kháng thể dị loại được tạo ra trong đáp ứng miễn dịch với nhiễm EBV. Xét nghiệm này cho kết quả nhanh và được khuyến cáo trong chẩn đoán nhiễm EBV trên lâm sàng. Độ nhạy của xét nghiệm khoảng 70-92%, độ đặc hiệu >95%, với PPV :35,4% và NPV: 98,5%. Tuy nhiên có một số hạn chế của xét nghiệm liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả như: Với trẻ < 4 tuổi độ nhạy của xét nghiệm chỉ từ 27-76%, thời gian khởi phát triệu chứng < 2 tuần làm tăng tỷ lệ dương tính giả của xét nghiệm, không phát hiện các trường hợp IM không do EBV hoặc nhiễm EBV không tăng kháng thể dị loại (khoảng 10% số trường hợp bệnh). Xét nghiệm monospot thường được sử dụng nhưng nó có thể tạo ra kết quả âm tính giả, đặc biệt là ở trẻ em. Có tới 50% trẻ nhỏ và 20% người lớn có thể không tạo ra kháng thể dị hợp có thể phát hiện được. Trong những trường hợp như vậy, hoặc khi biểu hiện lâm sàng không điển hình, nên xét nghiệm kháng thể EBV cụ thể để chẩn đoán chính xác.
  • Xét nghiệm kháng thể EBV gồm:

+ Giai đoạn khởi phát sớm(1-2 tuần từ khi khởi phát triệu chứng):

  • Kháng thể IgM kháng kháng nguyên vỏ virus (IgM-VCA) xuất hiện đầu tiên, thường trong vòng 1-2 tuần kể từ khi khởi phát triệu chứng.
  • Kháng thể dị thể có thể phát hiện được, thường được sử dụng trong các xét nghiệm chẩn đoán nhanh.

+ Giai đoạn cấp tính (2-6 tuần sau khi khởi phát triệu chứng):

  • Kháng thể IgG kháng VCA xuất hiện và tăng lên nhanh chóng.
  • Kháng thể IgG đối với kháng nguyên sớm (EA) có thể được phát hiện.
  • Kháng thể IgA chống lại các kháng nguyên tiêu hủy sớm, đặc biệt là BZLF1 (ZEBRA) và BMRF1 (EA khuếch tán), hiện diện ở mức cao

+ Giai đoạn hồi phục (1-4 tháng):

  • Kháng thể IgM VCA và kháng thể dị thể bắt đầu giảm.
  • Kháng thể IgG-VCA và IgM-EA tăng.
  • Các kháng thể kháng kháng nguyên hạt nhân Epstein-Barr (IgM-EBNA) bắt đầu xuất hiện, thường là 6-12 tuần sau khi khởi phát triệu chứng.

+ Giai đoạn muộn (4-6 tháng trở lên):

  • IgM-VCA và kháng thể dị thể thường không thể phát hiện được.
  • Kháng thể IgG VCA và EBNA tồn tại vô thời hạn.
  • Kháng thể IgG EA có thể tồn tại ở một số cá nhân nhưng nhìn chung suy giảm.
  • Xét nghiệm sinh học phân tử:
  • Xét nghiệm PCR phát hiện và PCR định lượng EBV DNA, đặc biệt có giá trị trong chẩn đoán trường hợp theo dõi tình trạng bệnh và đánh giá EBV ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. 

Chẩn đoán phân biệt

Nhiều bệnh do virus khác và một số trường hợp do rickettsia có đặc điểm tương tự như EBV. Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh lí nhiễm trùng khác như cytomegalovirus, virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), HPV vi rút típ 6, viêm gan B và các bệnh do ve truyền như bệnh Lyme. HIV nguyên phát có thể biểu hiện bằng loét niêm mạc da; hơn nữa, phát ban da thường thấy ở HIV nguyên phát và ít phổ biến hơn nhiều ở bệnh bạch cầu đơn nhân. 


Các biện pháp điều trị Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân

Điều trị

Điều trị bệnh lí tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng chủ yếu liên quan đến liệu pháp giảm nhẹ triệu chứng và nâng cao thể trạng của bệnh nhân bao gồm:

  • Nghỉ ngơi và uống nhiều nước

Bệnh nhân cần nghỉ ngơi tuyệt đối trong giai đoạn cấp tính của bệnh và uống đủ nước đặc biệt nên bổ sung các loại nước ép trái cây hoặc nước điện giải (oresol) để hỗ trợ hạ sốt và giảm đau họng ngăn ngừa mất nước.

  • Thuốc giảm đau hạ sốt

Acetaminophen (Paracetamol) hoặc ibuprofen (Advil, Motrin) để trị sốt, đau họng và đau nhức cơ thể. Tránh dùng aspirin ở trẻ em và thanh thiếu niên do nguy cơ mắc hội chứng Reye.

  • Giảm đau họng

Súc miệng bằng nước muối ấm (¼ thìa cà phê muối trong 240mL nước ấm) vài lần trong ngày. Sử dụng viên ngậm hoặc thuốc xịt họng có chứa benzocain hoặc phenol.

  • Chăm sóc hỗ trợ

Duy trì chế độ ăn uống lành mạnh để hỗ trợ hệ thống miễn dịch. Tránh các hoạt động gắng sức và các môn thể thao đối kháng để ngăn ngừa nguy cơ vỡ lách.


Các biện pháp dự phòng bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng

Tiên lượng

Bệnh bạch cầu đơn nhân thường tự khỏi trong vòng 3-4 tuần. Mệt mỏi và khó chịu có thể kéo dài trong vài tháng, nhưng đại đa số bệnh nhân sẽ hồi phục hoàn toàn. Các biến chứng nghiêm trọng không phổ biến nhưng có thể bao gồm: Vỡ lách (biến chứng gây tử vong phổ biến nhất), biến chứng liên quan đến hệ thần kinh trung ương (ví dụ, viêm màng não, viêm não), tắc nghẽn đường thở do sưng hạch bạch huyết. Hầu hết bệnh nhân hồi phục mà không để lại di chứng lâu dài đáng kể.


Tài liệu tham khảo:

  • Epstein-Barr virus infection mechanisms. https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC4244317/.
  • Infectious Mononucleosis (IM) in Emergency Medicine. https://emedicine.medscape.com/article/784513-overview?form=fpf
  • Infectious Mononucleosis (mono, EBV mononucleosis). https://www.health.ny.gov/diseases/communicable/mononucleosis/fact_sheet.htm
  • Mononucleosis. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK470387/
  • Infectious mononucleosis (glandular fever). https://www.health.vic.gov.au/infectious-diseases/infectious-mononucleosis-glandular-fever.






Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.
bác sĩ lựa chọn dịch vụ