Bác sĩ: ThS. BSNT Trần Tiến Tùng
Chuyên khoa: Truyền nhiễm
Năm kinh nghiệm: 04 năm
Bệnh cúm khá phổ biến trong cộng đồng và hầu như ai cũng đã từng mắc. Đây là một loại bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân đến từ virus xâm nhập và gây tổn thương hệ hô hấp của người bệnh ở các vị trí như mũi, cổ họng và phổi. Phần lớn cúm sẽ tự khỏi trong thời gian ngắn nhưng cũng có khi cúm sẽ gây nên những biến chứng nghiêm trọng, thậm chí người bệnh có thể bị tử vong do cúm, đặc biệt là các đối tượng sau:
- Người lớn trên 65 tuổi.
- Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, nặng hơn là đối với những trẻ dưới 2 tuổi.
Bệnh cúm khá phổ biến trong cộng đồng và hầu như ai cũng đã từng mắc
- Phụ nữ đang có thai và phụ nữ sau khi sinh 2 tuần.
- Người mắc chứng béo phì, thừa cân khi chỉ số cơ thể BMI ở mức trên 40.
- Người cao tuổi trong các viện dưỡng lão.
- Người mắc bệnh lý mạn tính: bệnh tim, hen suyễn, bệnh gan, thận, tiểu đường.
- Người suy giảm miễn dịch, đề kháng yếu.
Virus cúm lây truyền từ người sang người thông qua những giọt bắn chứa virus khi người bệnh nói chuyện, ho, hắt hơi,... Các chủng virus cúm đang lưu hành phổ biến tại Việt Nam là virus cúm A, B, C và gặp nhiều nhất là cúm A và cúm B. Khả năng lây truyền của virus cúm rất khủng khiếp và là một trong những căn bệnh nguy hiểm nhất thế giới khi cúm bùng phát thành dịch. Con người trên thực tế đã chứng kiến sự càn quét tàn bạo của các trận dịch cúm trong lịch sử đã cướp đi hàng triệu sinh mạng trên thế giới.
Cúm không ngoại trừ bất kỳ đối tượng nào và tỷ lệ nhiễm những chủng virus cúm mới rất cao - lên tới 90% ở cả đối tượng người lớn lẫn trẻ em. Các biến chứng nghiêm trọng có thể gặp do cúm gây ra là viêm phổi, viêm phế quản, viêm tai, thậm chí là viêm não và có thể đe dọa tới tính mạng của người bệnh.
Theo báo cáo của WHO - Tổ chức Y tế thế giới thì mỗi năm trên toàn cầu có từ 5 - 10% số người lớn và từ 20 - 30% trẻ em bị mắc bệnh cúm. Đáng báo động hơn và trong tỷ lệ này có đến nửa triệu ca tử vong do phải trải qua những vấn đề về sức khoẻ mà cúm gây nên. Còn ở Việt Nam, số trường hợp mắc cúm mỗi năm được ghi nhận là khoảng 1 - 1,8 triệu người. Nếu như trước đây cúm thường xảy ra chủ yếu vào mùa lạnh, cụ thể là thời điểm đông xuân, nhưng giờ đây ở nước ta cúm có thể xuất hiện quanh năm, thậm chí có thể bùng nổ những cụm dịch rải rác ở các địa phương khác nhau.
Virus cúm với tên tiếng Anh là Influenza virus là căn nguyên dẫn tới căn bệnh này. Ngay cả khi đã có vắc xin phòng bệnh cúm, việc phòng ngừa bệnh vẫn gặp rất nhiều khó khăn do virus này liên tục biến thể và thường xuyên cho ra đời những phiên bản mới, thách thức giới khoa học của con người.
Bệnh cúm có nguyên nhân vừa virus
Cấu tạo của virus cúm: Bản chất của vỏ virus là Glycoprotein gồm 2 loại kháng nguyên sau:
· Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu H - Hemagglutinin gồm 15 loại.
· Kháng nguyên trung hoà N - Neuraminidase gồm 9 loại.
Chỉ cần các tổ hợp của 2 loại kháng nguyên trên sắp xếp khác nhau sẽ cho kết quả những phân tuýp khác nhau của virus cúm A. Hai kháng nguyên H và N, đặc biệt là kháng nguyên H trong quá trình lưu hành sẽ liên tục biến đổi. Những biến đổi nhỏ liên tục (được gọi là trôi kháng nguyên) sẽ gây ra các đợt dịch có quy mô vừa và nhỏ. Tuy nhiên khi những biến đổi nhỏ dần tích tụ lại sẽ tạo nên các biến đổi lớn, tạo nên tuýp kháng nguyên mới. Nguyên nhân là do có sự tái tổ hợp giữa các chủng virus cúm người và cúm động vật. Những phân tuýp kháng nguyên mới này chính là nguồn gốc tạo ra các trận đại dịch cúm trên toàn cầu.
Khi mới mắc bệnh, biểu hiện của cúm khá tương đồng với các triệu chứng cảm lạnh thông thường như hắt hơi, sổ mũi và đau họng. Tuy nhiên cần nhớ rằng bệnh cảm lạnh phát triển từ từ, còn cúm thì sẽ xuất hiện đột ngột hơn. Do vậy nhiều người thường nhầm lẫn và gộp chung hai bệnh này làm một với tên gọi là bệnh cảm cúm và bệnh nhân có xu hướng tự đi mua thuốc và điều trị tại nhà, ít khi tới khám tại bệnh viện.
Các biểu hiện thường thấy của bệnh thường là bắt đầu từ sốt, ớn lạnh,..
Những triệu chứng sau cảnh báo có thể bạn đang mắc bệnh cúm mùa:
- Sốt cao trên 38 độ C.
- Ớn lạnh.
- Mệt mỏi.
- Đau nhức mỏi cơ bắp.
- Đau đầu.
- Nghẹt mũi.
- Ho khan.
- Viêm họng.
Biến chứng có thể coi là nguy hiểm nhất của cúm đó là hội chứng Reye gây sưng phù ở não và gan. Tuy rằng hội chứng này khá hiếm gặp nhưng mức độ nghiêm trọng thì rất đáng báo động vì có thể dẫn tới nguy cơ tử vong cao cho bệnh nhân. Thông thường trẻ em trong độ tuổi từ 2 - 16 là đối tượng dễ mắc phải hội chứng này. Reye thậm chí có thể xuất hiện rất nhanh chỉ sau vài ngày bắt đầu nhiễm virus cúm. Cho đến khi những biểu hiện của hội chứng có dấu hiệu thuyên giảm thì trẻ sẽ đột nhiên bị nôn mửa, sau đó chuyển sang mê sảng, co giật, xảy ra hiện tượng hôn mê sâu rồi tử vong.
Biến chứng có thể coi là nguy hiểm nhất của cúm đó là hội chứng Reye gây sưng phù ở não và gan
Đặc biệt, những thai phụ nếu bị mắc cúm trong giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ có nguy cơ cao sẽ bị sảy thai, thai lưu hoặc dị tật thai nhi. Nếu bị nhiễm cúm khi đang mang thai, các mẹ bầu nên thực hiện khám thai, siêu âm 2 tuần/lần trong vòng 2 tháng đầu và khám định kỳ ở những tháng kế tiếp theo hướng dẫn của bác sĩ để theo dõi sự phát triển của thai nhi. Ngoài ra thai phụ có thể cần phải tiến hành những xét nghiệm cần thiết khác.
Người khoẻ mạnh có thể bị nhiễm cúm thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với người đang mang mầm bệnh. Do virus cúm có thể ẩn nấp trong những giọt bắn do người mắc bệnh cúm phát ra khi giao tiếp, ho, hắt hơi, sổ mũi,... nên người xung quanh khi nói chuyện cùng người bệnh sẽ có khả năng cao bị hít phải các giọt bắn này.
Không chỉ có vậy, những giọt bắn chứa virus này có thể tồn tại trên bề mặt như đồ dùng cá nhân, điện thoại, bàn phím máy tính, khi chúng ta chạm phải rồi đưa tay lên miệng, lên mắt, mũi cũng sẽ bị nhiễm virus cúm.
Những yếu tố nguy cơ sau đây sẽ làm gia tăng khả năng mắc cúm và gây nên những biến chứng ở người bệnh:
- Tuổi tác: bệnh nhân tuổi càng cao càng có nguy cơ bị bệnh cúm.
Bệnh nhân tuổi càng cao càng có nguy cơ bị bệnh cúm
- Phụ nữ mang thai: những thai phụ rất dễ mắc bệnh cúm và sinh ra biến chứng, đặc biệt nguy hiểm trong 6 tháng cuối của thai kỳ.
- Điều kiện sống và làm việc cũng là một yếu tố làm gia tăng nguy cơ nhiễm virus cúm, ví dụ như những người sống hoặc làm việc tại môi trường đông người như trường mầm non, viện dưỡng lão, nhà máy, doanh trại quân đội,...
- Đề kháng kém, hệ thống miễn dịch suy yếu: mắc HIV/AIDS, đang điều trị ung thư, cấy ghép tạng và phải dùng thuốc chống đào thải, đang phải dùng corticosteroid gây suy yếu hệ thống miễn dịch. Mà một khi đội quân bảo vệ cơ thể bị tổn thương thì sẽ tạo điều kiện cho virus cúm tấn công và khả năng biến chứng cũng cao hơn.
- Bệnh nhân bị béo phì.
- Mắc bệnh lý nền mạn tính.
Mặc dù không đem lại hiệu quả tối đa 100% nhưng tiêm vắc xin phòng cúm là cách tốt nhất để ngăn ngừa căn bệnh này. Theo khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) thì công dân từ 6 tháng tuổi trở lên đều cần phải tiêm vắc xin cúm hàng năm.
Tiêm vắc xin phòng cúm là cách tốt nhất để ngăn ngừa căn bệnh cúm
Vắc xin cúm sẽ có tác dụng bảo vệ người được tiêm khỏi sự tấn công của 3 - 4 chủng virus cúm thịnh hành trong mùa cúm của năm đó. Bên cạnh dạng tiêm, vắc xin cúm còn có dạng xịt mũi nhưng các đối tượng bệnh nhân như trẻ em từ 2 - 4 tuổi, phụ nữ mang thai, người bị hen suyễn hoặc hay bị thở khò khè, người hệ miễn dịch yếu thì không nên dùng dạng xịt.
Phần lớn thành phần của các loại vắc xin tiêm phòng cúm đều có một lượng nhỏ protein của trứng. Do đó nếu người nào bị dị ứng nhẹ với loại protein này như bị nổi mề đay khi ăn trứng thì vẫn có thể thực hiện tiêm phòng. Nhưng nếu bị dị ứng nặng thì khi tiêm cần có sự giám sát chặt chẽ của cơ sở y tế nơi có đủ khả năng cấp cứu kịp thời nếu bệnh nhân xuất hiện phản ứng phụ quá mẫn với vắc xin.
Ngay cả khi đã tiêm phòng vắc xin cúm thì mỗi người vẫn cần có ý thức trang bị các biện pháp sau để phòng tránh sự lây lan:
Dựa trên các biểu hiện lâm sàng của người bệnh và phương pháp xét nghiệm, bác sĩ sẽ có cơ sở để chẩn đoán bệnh cúm.
Xét nghiệm phổ biến thường được sử dụng hiện nay đó là xét nghiệm nhanh tìm kháng nguyên virus cúm thông qua mẫu bệnh phẩm lấy ở họng hoặc mũi của bệnh nhân. Chỉ sau khoảng 15 phút là đã có thể lấy kết quả xét nghiệm nhưng không phải lúc nào cũng chính xác. Thậm chí nếu xét nghiệm là âm tính thì bác sĩ vẫn có thể nhận định bệnh nhân đang mắc cúm dựa trên các triệu chứng lâm sàng.
Những biện pháp giúp kiểm soát các triệu chứng của bệnh cúm bao gồm:
- Trước hết người bệnh cần được nghỉ ngơi, ngủ đủ giấc để hệ thống miễn dịch có thời gian chống lại sự tấn công của virus.
- Bệnh nhân cần bổ sung nhiều nước lọc, nước trái cây và nước từ thức ăn hàng ngày như canh súp ấm để tránh tình trạng mất nước do sốt dẫn tới mệt mỏi.
Sử dụng thuốc điều trị bệnh cúm cho bệnh nhân
- Thuốc: ngoài việc nghỉ ngơi và bổ sung đủ nước, bác sĩ có thể kê thêm cho bệnh nhân những loại thuốc như: zanamivir (Relenza) hoặc oseltamivir (Tamiflu) có tác dụng làm giảm triệu chứng bệnh cúm nhanh hơn, ngăn ngừa những biến chứng nguy hiểm sau này.
- Xem xét dùng thêm những loại thuốc giảm đau: ibuprofen hoặc acetaminophen.
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!