Bác sĩ: BSCKI. Vũ Thanh Tuấn
Chuyên khoa: Hô hấp
Năm kinh nghiệm: 7 năm
Tình trạng tăng bạch cầu ái toan có thể bắt nguồn từ nguyên nhân bệnh lý, trong đó bệnh viêm phổi được cho là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ tăng bạch cầu ái toan cao nhất. Thuật ngữ thường được nhắc đến “Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan” chính là một hội chứng điển hình của bệnh viêm phổi bị thâm nhiễm nghiêm trọng và có biểu hiện tăng bạch cầu ái toan khi rửa phế quản hoặc phát hiện nhiều bạch cầu ái toàn khi thực hiện sinh thiết phổi.
Bệnh viêm phổi được cho là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ tăng bạch cầu ái toan cao nhất
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan có thể biểu hiện ở dạng cấp tính hoặc đã tiến triển tới mạn tính, các biểu hiện triệu chứng bệnh thường gặp nhất là sốt cao, ho và khó thở. Nguyên nhân gây bệnh hầu hết là do bị nhiễm một số loại ký sinh trùng gây bệnh ở phổi hoặc bắt nguồn từ việc sử dụng một số loại thuốc điều trị không đáp ứng với cơ thể. Tuy nhiên, có ít nhất ⅓ số ca bệnh gặp phải trường hợp viêm phổi tăng bạch cầu ái toan không xác định được nguyên nhân chính gây bệnh.
Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan có thể được chữa trị khỏi nếu kịp thời phát hiện và lựa chọn đúng phương pháp điều trị. Việc điều trị bệnh không khó nhưng nếu không cải thiện tình hình bệnh sớm hoặc không có biện pháp phòng ngừa bệnh hiệu quả thì nguy cơ tái phát bệnh rất cao, hoặc bệnh chuyển biến sang dạng mạn tính không thể chữa trị dứt điểm.
Tình trạng tăng bạch cầu ái toan là gì?
Bạch cầu ái toan là một thành phần quan trọng trong máu giữ vai trò như một mắt xích trong lớp màng hệ miễn dịch bảo vệ cơ thể. Vai trò chính của các bạch cầu ái toàn bao gồm: Việc phát hiện và hỗ trợ phá hủy các chất lạ xâm nhập vào cơ thể (ví dụ như các loại vi khuẩn, ký sinh trùng,...); Điều hòa các phản ứng viêm (bạch cầu ái toan tăng khi phát hiện có xuất hiện biểu hiện viêm nhiễm, mục đích giúp ly tách và kiểm soát một vị trí bệnh xác định).
Bạch cầu ái toan sẽ có xu hướng tăng cao khi cơ thể người bệnh gặp phải các vấn đề về viêm nhiễm. Trong trường hợp các phản ứng viêm không nặng có thể được bạch cầu ái toan và các thành phần khác trong hệ miễn dịch kịp thời phát hiện và xử lý. Tuy nhiên, một số trường hợp các phản ứng viêm xuất hiện quá mức khiến hệ miễn dịch không thể kiểm soát được hết có thể gây ra các triệu chứng bệnh phức tạp hơn, các lớp mô xung quanh vị trí viêm sẽ bị thương tổn.
Tình trạng tăng bạch cầu ái toan được biểu hiện theo 3 nhóm phân biệt chính bao gồm:
- Phân loại theo đặc tính nguyên nhân: Tình trạng tăng bạch cầu ái toan nguyên phát, thứ phát hoặc tự phát.
- Phân loại theo bệnh lý: Những căn bệnh thường khiến cho lượng bạch cầu ái toan tăng cao như ung thư bạch cầu ái toan cấp, u dưỡng bào, nhiễm virus HIV, u lympho, suy giãn tĩnh mạch, bệnh tắc nghẽn động mạch,...
- Phân loại theo bệnh nguyên và số lượng bạch cầu ái toan có trong máu: ví dụ như lượng bạch cầu ái toan rơi vào khoảng 2.000 – 5.000 tế bào/ µl trong trường hợp bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, hội chứng Churg- Strauss, hen nội sinh, viêm cân mạc tăng BCAT, nhiễm nấm Aspergillus phế quản phổi dị ứng,...
Có rất nhiều nguyên nhân có thể khiến người bệnh bị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan. Việc phát hiện và chẩn đoán chính xác nguyên nhân gây bệnh chính là bước đầu thành công trong quá trình điều trị bệnh. Theo nghiên cứu, có hơn ⅓ số ca bệnh viêm phổi tăng bạch cầu ái toan không xác định được nguyên nhân gây bệnh, ⅔ số ca bệnh còn lại bắt nguồn từ yếu tố ký sinh trùng xâm nhập cơ thể hoặc người bệnh sử dụng một số loại thuốc gây ra tác dụng phụ.
Các loài ký sinh trùng làm tăng lượng bạch cầu ái toan thường gặp như:
- Ascaris lumbricoides (nguyên nhân gây bệnh phổ biến nhất)
Ascaris lumbricoides (nguyên nhân gây bệnh phổ biến nhất)
- Strongyloides stercoralis
- Necator americanus
- Strongyloides stercoralis
- Ascaris suum
- Toxocara canis
- Toxocara cati
- Ancylostoma braziliense
- Ancylostoma caninum
- Ancylostoma duodenale
- Dirofilaria immitis
- Clonorchis sinensis
- Entamoeba histolytica
- Fasciola hepatica
- Paragonimus Westermani
Các nhóm thuốc sau đây có thể làm tăng lượng bạch cầu ái toan:
- Một số loại thuốc chống co giật: Carbamazepine, acid valproic, phenytoin, ethambutol.
- Một số loại thuốc kháng sinh: Dapsone, isoniazid, ethambutol, penicillin, nitrofurantoin, pyrimethamine, tetracycline, clarithromycin, daptomycin.
- Các loại thuốc điều hòa miễn dịch và các loại thuốc chống viêm: Aspirin, cromolyn, vàng, azathioprine, beclomethasone, diclofenac, fenbufen, methotrexate, naproxen, piroxicam, tolfenamic axit, ibuprofen, phenylbutazone.
- Một số loại thuốc khác như: Captopril, chlorpromazine, bleomycin, sulfasalazine, sulfonamides, imipramin, methylphenidate.
Bệnh viêm viêm phổi tăng bạch cầu ái toan là một dạng viêm phổi phổ biến, các biểu hiện của bệnh bao gồm: Tình trạng thâm nhiễm phổi, tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi (có thể có hoặc không), tăng bạch cầu ái toan trong dịch rửa phế quản và các nhu mô phổi. Bệnh viêm phổi tăng bạch cầu ái toan có thể xuất hiện ở nhiều thể khác nhau:
- Bệnh cấp tính hoặc mạn tính: xuất hiện các triệu chứng ho sốt và khó thở.
- Hội chứng Loeffler: tăng bạch cầu ái toàn trong máu, thâm nhiễm phổi thoáng qua.
- Viêm phổi tăng bạch cầu ái toan nhiệt đối: Nguyên nhân chính do cơ thể bị nhiễm một số loại giun chỉ có trong bạch huyết, tăng sự nhạy cảm đáp ứng phổi.
Biểu hiện ban đầu của bệnh viêm phổi tăng bạch cầu ái toan là sốt cao đột ngột hoặc kéo dài trong nhiều giờ, ho khan hoặc ho có đờm (các cơn ho biểu hiện tùy thuộc vào tác nhân gây bệnh viêm phổi), thường xuyên thở khò khè, khó thở, đổ mồ hôi ban đêm,...
Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị sớm có thể dẫn tới tình trạng biểu hiện các triệu chứng bệnh ở mức nguy hiểm hơn: Các cơn ho kéo dài không ngừng khiến người bệnh rất khó thực hiện các sinh hoạt cá nhân, tình trạng khó thở xuất hiện với tần suất cao hơn, cơ thể mệt mỏi thiếu sức sống, sụt cân nhanh không rõ nguyên nhân, suy hô hấp,...
- Giữ gìn vệ sinh cá nhân: Hạn chế tối đa đồ ăn chưa qua chế biến (rau sống, thịt cá sống,...), vệ sinh sạch sẽ tay chân sau khi tiếp xúc với các mầm bệnh (đất cát, bụi bẩn, vật nuôi,...), vệ sinh đồ dùng làm bếp thường xuyên, rửa tay trước và sau khi đi vệ sinh,...
- Sử dụng các loại thuốc điều trị theo hướng dẫn của các bác sĩ chuyên khoa, nếu xuất hiện các dấu hiệu bất thường như ho, sốt, khó thở,... cần đi khám lại ngay nhằm phát hiện kịp thời nguyên nhân gây bệnh (cần cung cấp thông tin những loại thuốc đang sử dụng cho bác sĩ).
- Tẩy giun định kỳ cho cả người lớn và trẻ em trên 2 tuổi.
Chẩn đoán bệnh viêm phổi tăng bạch cầu ái toan sẽ được thực hiện thông qua hai giai đoạn chính: Chụp X-quang ngực xác định vùng phổi kiểm tra tình trạng thương tổn ở phổi và nguy cơ tăng bạch cầu ái toan; Chứng minh lượng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, mô phổi hoặc dịch rửa phế quản tăng.
Chụp X-quang ngực là biện pháp chẩn đoán được thực hiện ban đầu khi bệnh nhân có nghi ngờ bị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan. Sự xuất hiện các đám mờ trên hình ảnh chụp x-quang ngực có thể cảnh báo nguy cơ tăng bạch cầu ái toan máu (hoặc hội chứng thâm nhiễm phổi với bạch cầu ái toan).
Sự xuất hiện các đám mờ trên hình ảnh chụp x-quang ngực có thể cảnh báo nguy cơ tăng bạch cầu ái toan máu
Thực hiện sinh thiết các tế bào được lấy từ các mô ở phổi hoặc xét nghiệm máu ngoại vi, dịch rửa phế nang và phế quản nhằm mục đích chứng minh có dấu hiệu tăng bạch cầu ái toan. Bạch cầu ái toan có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào bên trong cơ thể con người, tuy nhiên lại không có trong phổi của một người khỏe mạnh. Biện pháp sinh thiết các tế bào ở mô phổi có thể chẩn đoán chính xác tình trạng viêm phổi tăng bạch cầu ái toan.
Bên cạnh đó, lượng bạch cầu ái toan có trong các lớp mô sẽ nhiều hơn gấp trăm lần so với lượng bạch cầu ái toan có trong máu. Đặc biệt là các mô tiếp xúc gần nhất với môi trường như đường tiêu hóa, đường hô hấp và đường sinh dục dưới. Chính vì vậy, mức độ thương tổn các mô do tình trạng tăng bạch cầu ái toan không phụ thuộc nhiều vào kết quả xét nghiệm máu ngoại vi.
Theo nghiên cứu, bạch cầu ái toan có tính nhạy cảm với corticoid. Trong trường hợp bệnh nhân có sử dụng corticosteroid trước khi thực hiện các xét nghiệm máu chẩn đoán bệnh sẽ không đưa ra kết quả xét nghiệm chính xác nhất. Nguyên nhân là do tác động của corticosteroid có thể làm lượng bạch cầu ái toan trong máu mất đi hoàn toàn trong khoảng vài giờ đồng hồ.
Việc lựa chọn phương pháp điều trị hợp lý nhất đối với từng đối tượng bệnh nhân cần phải xác định được dấu hiệu tổn thương của phổi, mức độ tăng bạch cầu ái toan và nguyên nhân gây bệnh.
Biện pháp điều trị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan sẽ được lựa chọn điều trị nguyên nhân gây bệnh hoặc điều trị tổng quát khi không phát hiện nguyên nhân. Ví dụ trường hợp bệnh nhân được phát hiện tổn thương phổi do giun sán ký sinh có thể điều trị bằng các loại thuốc tẩy giun, bệnh nhân bị tác dụng phụ từ thuốc thì cần tạm ngừng các loại thuốc đó,...
Sử dụng thuốc Corticosteroid thông qua đường tĩnh mạch hoặc dạng uống (dạng hít) là biện pháp hiệu quả nhất trong điều trị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan. Thông thường bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc prednisone 40 - 60 mg một lần/ngày là bước điều trị ban đầu. Hiệu quả của thuốc thường phản ứng nhanh, muộn nhất là sau 48 giờ từ lúc sử dụng thuốc các triệu chứng lâm sàng của người bệnh sẽ thuyên giảm rõ rệt. Sau khoảng 14 ngày điều trị hầu hết bệnh nhân đều khỏe mạnh hoàn toàn, không xuất hiện thêm các biểu hiện triệu chứng bệnh nào.
Sử dụng thuốc Corticosteroid thông qua đường tĩnh mạch hoặc dạng uống (dạng hít) là biện pháp hiệu quả nhất trong điều trị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan
Trong quá trình theo dõi quá trình điều trị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan, phương pháp chụp X-quang sẽ được thực hiện định kỳ nhằm kiểm tra mức độ hiệu quả của thuốc điều trị và phát hiện kịp thời các dấu hiệu bất thường có thể xảy ra. Ngoài ra, lượng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, mức độ ESR và IgE cũng được thực hiện nhằm bổ sung thông tin theo dõi diễn biến lâm sàng của bệnh trong suốt quá trình chữa bệnh. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân bị viêm phổi tăng bạch cầu ái toan đều đưa ra kết quả xét nghiệm bất thường.
Tình trạng viêm phổi tăng bạch cầu ái toan có thể bị tái phát, các triệu chứng bệnh hoặc hình ảnh X-quang có thể biểu hiện rõ các dấu hiệu bất thường sau khi người bệnh ngừng hoặc giảm lượng corticosteroid trong điều trị. Tình trạng tái phát bệnh có thể diễn ra sau vài tháng hay thậm chí vài năm, vì vậy một số trường hợp người bệnh phải duy trì điều trị với corticosteroid trong thời gian dài. Hiện nay, bác sĩ thường khuyến cáo người bệnh nên dùng corticosteroid dạng hít nhằm mang kết quả điều trị hiệu quả và thuận tiện sử dụng, ví dụ như beclomethasone hoặc fluticasone 500 - 700 mcg dùng 2 lần/ngày.
Tình trạng tái phát bệnh không cho thấy tiên lượng xấu hơn, quá trình điều trị thất bại hoặc tình trạng tàn tần lớn hơn nếu bệnh nhân vẫn đáp ứng với corticosteroid. Trong một số trường hợp, bệnh viêm phổi tăng bạch cầu ái toan có thể biểu hiện các triệu chứng bất thường gây cản trở chức năng sinh lý quan trọng của phổi (ví dụ như tình trạng xơ hóa không hồi phục). Tuy nhiên, các biến chứng bất thường dù có nghiêm trọng cũng không thể gây tàn tật hoặc tử vong ở người bệnh.
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!