Bác sĩ: BSCKI. Vũ Thanh Tuấn
Chuyên khoa: Hô hấp
Năm kinh nghiệm: 7 năm
Cấu tạo: âm đạo là một ống cơ nối liền giữa âm hộ và tử cung. Ung thư âm đạo là một loại bệnh lý ác tính, bắt nguồn từ các tế bào đột biến hình thành nên u ác tính trong âm đạo.
Ung thư nguyên phát ở âm đạo khá hiếm gặp, chiếm từ 3 - 5% trong số các bệnh lý ung thư phụ khoa, các trường hợp ung thư âm đạo xảy ra chủ yếu là do các tế bào ung thư từ những cơ quan khác trong cơ thể di căn đến âm đạo.
Ung thư âm đạo thường bắt gặp ở những người phụ nữ lớn tuổi, trong đó có đến 80 - 85% bệnh nhân là phụ nữ mãn kinh, ít gặp hơn ở phụ nữ dưới 40 tuổi và hiếm thấy ở phụ nữ có thai.
Ung thư âm đạo là một loại bệnh lý ác tính, bắt nguồn từ các tế bào đột biến hình thành nên u ác tính trong âm đạo
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào có thể xác định rõ ràng nguyên nhân dẫn đến ung thư âm đạo. Tuy vậy các yếu tố sau đây cũng làm tăng khả năng mắc bệnh lý này ở nữ giới, đó là:
Những bệnh nhân đã từng bị mụn cóc sinh dục do nhiễm virus HPVsẽ dễ xuất hiện những tế bào tiền ung thư hơn, lâu dần các tế bào này có thể tiến triển thành bệnh ung thư âm đạo
Ung thư âm đạo tiến triển bắt đầu từ lớp niêm mạc âm đạo. Ở giai đoạn đầu bệnh không thể hiện triệu chứng rõ ràng và thường phát triển một cách âm thầm. Tuy nhiên bệnh nhân có thể gặp các dấu hiệu sau đây cảnh báo bản thân đang mắc hoặc có nguy cơ bị ung thư âm đạo:
Đau bụng dưới là một trong những dấu hiệu cảnh báo mắc ung thư âm đạo
Khi gặp những biểu hiện như dịch nhầy có trạng thái bất thường, xuất huyết âm đạo bệnh nhân cần tới bệnh viện càng sớm càng tốt để tiến hành thực hiện các biện pháp xét nghiệm, chẩn đoán để xác định và làm rõ nguyên nhân gây ung thư âm đạo. Không nên tự mua thuốc về uống khi không có chỉ định của bác sĩ. Điều này có thể giúp bệnh nhân giải quyết được các triệu chứng ban đầu nhưng chỉ là nhất thời, thậm chí còn khiến bệnh trở nên nghiêm trọng hơn.
Bác sĩ sẽ dựa vào các triệu chứng lâm sàng của người bệnh. Tuy nhiên ở giai đoạn đầu bệnh có thể xuất hiện rất ít triệu chứng. Do đó người bệnh sẽ được chỉ định thực hiện thêm những xét nghiệm cần thiết như:
- Sinh thiết tế bào: lấy mẫu bệnh phẩm nhằm chẩn đoán xác định bệnh. Đối với các thương tổn nhỏ dưới 1cm có thể loại bỏ toàn bộ khối u để làm mô bệnh học;
- Thực hiện chọc hút tế bào đối với các hạch có xu hướng di căn;
- Chụp CT và MRI khu vực tiểu khung: mục đích để đánh giá mức độ lan rộng của khối u, hạch chậu, hạch bẹn;
Chụp CT và MRI khu vực tiểu khung để đánh giá mức độ lan rộng của khối u, hạch chậu, hạch bẹn
- Soi bàng quang và trực tràng: áp dụng khi ung thư đã lan rộng, tấn công tới gần niệu đạo và hậu môn;
- Siêu âm ổ bụng và chụp X-quang: kiểm tra, đánh giá khi khối u di căn xa sang những bộ phận khác;
- Chẩn đoán phân biệt giữa u ác với u lành tính hoặc các dạng u như:
Ung thư giai đoạn 1 - 2:
Phẫu thuật loại bỏ tế bào ung thư
Ung thư giai đoạn 3 - 4:
Mục đích của phương pháp này đó là khiến khối u bị thu nhỏ lại trước khi phẫu thuật loại bỏ hoàn toàn, hoặc dùng để dọn dẹp nốt những tế bào ung thư còn sót sau khi mổ.
Trường hợp bệnh nhân không thể áp dụng phẫu thuật triệt căn hoặc điều kiện sức khoẻ không cho phép phẫu thuật, thì có thể điều trị đơn thuần bằng liệu pháp xạ trị.
Phương pháp này được sử dụng khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, khi khối u đã di căn và gây tổn thương ở những cơ quan khác. Ngoài ra hoá trị còn giúp giảm thiểu kích thước của khối u, hỗ trợ cho việc phẫu thuật diễn ra dễ dàng hơn.
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!