Từ điển bệnh lý

Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da : Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ngày 20-02-2025

Tổng quan Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da

Bệnh Bowen có thể xuất hiện ở người trưởng thành ở bất kỳ độ tuổi nào nhưng hiếm gặp ở những người dưới 30 tuổi. Thông thường, bệnh nhân mắc bệnh Bowen có độ tuổi trên 60. Người ta cho rằng tỷ lệ mắc bệnh là ngang nhau giữa nam và nữ, mặc dù hầu hết các nghiên cứu cho thấy bệnh có xu hướng xuất hiện nhiều hơn ở nữ giới.

Bệnh Bowen có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể, bao gồm cả những vùng da tiếp xúc và không tiếp xúc với ánh nắng. Tuy nhiên, bệnh có khuynh hướng xuất hiện ở các vùng tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, chẳng hạn như đầu, cổ và đặc biệt là cẳng chân của phụ nữ.

Tỷ lệ mắc bệnh bệnh Bowen tại Hoa Kỳ chưa được xác định chính xác, nhưng theo một nghiên cứu dịch tễ học tại Hawaii, tỷ lệ mắc bệnh ước tính khoảng 142 trường hợp trên 100.000 người. Các tổn thương của bệnh Bowen thường xuất hiện đơn lẻ, nhưng có thể đa ổ ở khoảng 10% – 20% số bệnh nhân.



Nguyên nhân Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da

Sự phát triển của ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau:

- Tiếp xúc đáng kể với ánh nắng mặt trời: Đây là một trong những nguyên nhân chính, thể hiện qua nhóm tuổi mắc bệnh tương đối cao và vị trí tổn thương ưu thế của ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da, thường xuất hiện ở các vùng da tiếp xúc với ánh nắng.

- Nhiễm virus HPV: Khoảng 30% tổn thương ung thư tại chỗ của da ngoài vùng sinh dục có chứa DNA của HPV, đặc biệt là HPV-16, loại virus này đã được phát hiện trong nhiều trường hợp ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da vùng hậu môn - sinh dục và một số trường hợp ung thư của da ở ngón tay và quanh móng.

- Tiếp xúc với asen: Đây là một yếu tố nguy cơ quan trọng, có liên quan đến sự phát triển của ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da. Các tổn thương da do asen thường xuất hiện đa ổ, không chỉ khu trú ở vùng da tiếp xúc với ánh nắng mà có thể thấy cả ở vùng da che kín.

- Bức xạ ion hóa: Phơi nhiễm với bức xạ ion hóa có thể góp phần vào sự hình thành bệnh Bowen.

- Suy giảm miễn dịch: Đặc biệt ở bệnh nhân ghép tạng, sau nhiều năm điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch, nguy cơ mắc ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da tăng cao.

- Liệu pháp PUVA (Psoralen kết hợp tia cực tím A): bệnh Bowen có xu hướng xuất hiện nhiều hơn ở những bệnh nhân trải qua liệu pháp này.

- Sắc tố da: ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da hiếm gặp ở những người có sắc tố da sẫm màu, cho thấy sự khác biệt về nguy cơ mắc bệnh giữa các nhóm da khác nhau.



Triệu chứng Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da

Bệnh Bowen thường biểu hiện dưới dạng một mảng màu hồng đến đỏ, mỏng, giới hạn rõ, có kích thước tăng dần chậm theo thời gian. Bề mặt tổn thương có thể có vảy hoặc đóng mài, đôi khi trông giống như một mảng vảy nến. Các thay đổi bề mặt có thể bao gồm tăng sừng, sùi như mụn cóc, và một số trường hợp tổn thương có sắc tố của bệnh Bowen đã được ghi nhận trong dưới 2% số ca bệnh. Các tổn thương có thể có đường kính lên đến vài cm, và trường hợp có nhiều tổn thương cùng lúc không phải là hiếm. Như đã đề cập trước đó, bệnh Bowen có xu hướng xuất hiện ở các vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, bao gồm đầu, cổ, và cẳng chân, mặc dù bất kỳ vị trí nào trên cơ thể cũng có thể bị ảnh hưởng. Một số biến thể lâm sàng đặc biệt của bệnh Bowen bao gồm:

- Bệnh Bowen ở vùng nếp gấp da: Có thể xuất hiện dưới dạng mảng viêm đỏ tiết dịch hoặc mảng/đốm sắc tố.

- Bệnh Bowen quanh móng: Biểu hiện dưới dạng mảng mỏng, đỏ, có vảy quanh viền móng, có thể kèm mòn móng đóng mài, đổi màu móng, đỏ móng, bong móng, mảng sùi hoặc phá hủy bản móng.

- Bệnh Bowen ở niêm mạc: Có thể xuất hiện dưới dạng sẩn hoặc mảng sùi, polypoid, hồng ban hoặc mảng nhung đỏ.

Mô bệnh học

Lớp thượng bì trong bệnh ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da có loạn sản toàn bộ bề dày, bao gồm cả các cấu trúc phụ của biểu bì. Sự rối loạn này kéo dài từ lớp sừng đến lớp đáy, tuy nhiên màng đáy vẫn còn nguyên vẹn. Đặc điểm điển hình bao gồm tăng sừng, sừng hóa bất thường và dày thượng bì, làm mất hoàn toàn cấu trúc bình thường của thượng bì. Trong một số trường hợp, tăng sừng và sừng hóa bất thường nghiêm trọng đến mức tạo thành sừng da.

Toàn bộ lớp thượng bì với nhiều tế bào sừng không điển hình

Toàn bộ lớp thượng bì với nhiều tế bào sừng không điển hình

Trong toàn bộ lớp thượng bì có nhiều tế bào sừng không điển hình, có hình thái đa dạng, nhân đậm màu, đôi khi có bào tương sáng màu, giống với các tế bào trong bệnh Paget. Các tế bào này bị mất khả năng trưởng thành và mất cực tính, đồng thời có nhiều hình ảnh phân bào. Các tế bào sừng có thể có bào tương ưa eosin, nhân đậm màu to tròn và đôi khi có dạng đa nhân. Những tế bào không điển hình này cũng có thể hiện diện trong các cấu trúc nang lông - tuyến bã, bao gồm lỗ chân lông, phễu nang lông và tuyến bã nhờn. Ngoài ra, lớp thượng bì thường bị thâm nhiễm nhiều tế bào viêm mạn tính, chủ yếu là tế bào lympho, tương bào và đại thực bào.

Một số phân nhóm mô bệnh học của bệnh Bowen có thể gặp:

- Bệnh Bowen dạng vảy nến: Có sừng hóa bất thường và dày thượng bì rõ rệt, với lưới biểu bì mở rộng và hợp nhất.

- Bệnh Bowen teo: Biểu bì mỏng đi giống với dày sừng quang hóa teo nhưng có rối loạn sản toàn bộ bề dày và tổn thương tuyến phụ thuộc da.

- Bệnh Bowen mất liên kết tế bào: Biểu hiện mất kết dính tế bào sừng rõ rệt trong lớp thượng bì.

- Bệnh Bowen thoái hóa biểu bì: Xuất hiện thay đổi giống với tăng sừng thoái hóa biểu bì.

- Bệnh Bowen kiểu Paget: Có tế bào không điển hình tập trung thành từng đám trong thượng bì, một đặc điểm của u biểu mô trong thượng bì Borst-Jadassohn.



Các biến chứng Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da

Nguy cơ ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da không được điều trị tiến triển thành ung thư xâm lấn được ước tính trong các nghiên cứu trước đây là khoảng 3%–5%. Khi ung thư xâm lấn xuất hiện trong ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da, khoảng 13% trong số những ca ung thư này sẽ di căn, và trong số các ca đó, 10% sẽ dẫn đến tử vong do sự phát tán rộng rãi. Sự hiện diện của bệnh Bowen ở bất kỳ cá nhân nào là một chỉ báo cho nguy cơ cao phát triển ung thư da không hắc tố sau này. Trong các nghiên cứu liên quan đến mối liên hệ giữa sự hiện diện của bệnh Bowen và nguy cơ ung thư da không hắc tố khác, khoảng 30%–50% bệnh nhân ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da có tiền sử hoặc mắc ung thư da không hắc tố sau này. Một nghiên cứu khác ước tính tỷ lệ mắc ung thư da không hắc tố sau khi mắc bệnh Bowen là 4.3%. Các nghiên cứu trước đây cũng cho rằng sự hiện diện của ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da là một chỉ dấu cho ung thư nội tạng, mặc dù một số lượng đáng kể các nghiên cứu khác không thể xác nhận mối liên hệ này. Trong các trường hợp ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da liên quan đến tiếp xúc với asen, cần thiết phải khảo sát các khối u trong cơ thể bởi khả năng ung thư nội tạng là hiện hữu. Hơn nữa, ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da ở vùng âm hộ ở phụ nữ và vùng quanh hậu môn ở nam giới đã được chứng mình có liên quan với nguy cơ gia tăng mắc ung thư tử cung, cổ tử cung, âm đạo và ung thư hậu môn do nhiễm HPV.



Các biện pháp chẩn đoán Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da

Bệnh Bowen thường bị nhầm lẫn với một số tình trạng da khác về mặt lâm sàng và mô bệnh học.

- Chẩn đoán lâm sàng phân biệt: Bệnh Bowen thường bị chẩn đoán nhầm với ung thư biểu mô tế bào đáy thể nông (BCC thể nông), các mảng viêm da, vảy nến, lichen phẳng, dày sừng quang hóa (AK), dày sừng dạng lichen lành tính (BLK) hoặc dày sừng giống lichen phẳng, dày sừng tiết bã kích thích, và u hắc tố không sắc tố. Các tổn thương bệnh Bowen tăng sừng hoặc sùi có thể khó phân biệt với mụn cóc do virus, dày sừng tiết bã và ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC). Các tổn thương bệnh Bowen có sắc tố có thể bị nhầm với u hắc tố ác tính. BCC thể nông đôi khi có thể được phân biệt nhờ bờ tổn thương hơi nổi, trong mờ.

 Ung thư biểu mô vảy tại chỗ ở móng tay

 Ung thư biểu mô vảy tại chỗ ở móng tay

- Chẩn đoán mô bệnh học phân biệt: Bệnh Bowen cần được phân biệt với bệnh Paget, u hắc tố thể pagetoid tại chỗ, ung thư tuyến mồ hôi, ung thư tế bào Merkel, ung thư tuyến bã, bệnh bọng nước (BP), và các thay đổi do podophyllin gây ra trong mụn cóc.

  • Bệnh Paget và bệnh Bowen đều có các tế bào rỗng bào tương, nhưng bệnh Paget không có hiện tượng rối loạn sừng hóa như bệnh Bowen. Ngoài ra, chất bên trong tế bào Paget dương tính với PAS và kháng diastase, trong khi chất PAS dương tính trong bệnh Bowen (bệnh Bowen thể tế bào sáng) là glycogen nên bị phân hủy bởi diastase. Bệnh Paget dương tính với kháng nguyên carcinoembryonic (CEA), trong khi bệnh Bowen âm tính với marker này.
  • U hắc tố thể pagetoid tại chỗ có thể khó phân biệt với bệnh Bowen. Trong bệnh Bowen, cầu nối gian bào (desmosome) giữa các tế bào sừng không điển hình vẫn có thể quan sát được, trong khi nhuộm miễn dịch đặc hiệu với tế bào hắc tố cho kết quả dương tính trong u hắc tố nhưng âm tính trong bệnh Bowen và bệnh Paget.
  • Các tân sinh ác tính thể pagetoid hiếm gặp khác thường có thể được nhận diện, nhưng người không có kinh nghiệm có thể dễ chẩn đoán nhầm.
  • Bệnh bọng nước thường không có loạn sản toàn bộ bề dày thượng bì như bệnh Bowen, nhưng bối cảnh lâm sàng đóng vai trò quan trọng trong phân biệt.
  • Podophyllin bôi tại chỗ có thể gây ra hiện tượng ngừng phân bào ở kỳ giữa, tạo ra các tế bào sừng bất thường và đôi khi dẫn đến tăng sản biểu mô giả ung thư, có thể bị nhầm với bệnh Bowen. Những thay đổi này thường tự biến mất sau vài ngày đến một tuần.



Các biện pháp điều trị Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da

Có nhiều phương pháp khác nhau để điều trị ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da. Các phương pháp điều trị này có thể được chia thành ba loại chính: liệu pháp phẫu thuật và tiêu diệt khối u, liệu pháp tại chỗ và liệu pháp tiêu diệt không phẫu thuật. Liệu pháp phẫu thuật và tiêu diệt bao gồm cắt bỏ, phẫu thuật Mohs, nạo vét có hoặc không có điện phẫu, hóa trị bằng TCA và phẫu thuật lạnh. Liệu pháp tại chỗ bao gồm kem 5-FU và 5% imiquimod. Liệu pháp tiêu diệt không phẫu thuật bao gồm bắn laser, xạ trị và liệu pháp quang động (PDT). Mặc dù một số phương pháp này đã báo cáo tỷ lệ chữa trị tốt hơn các phương pháp khác, nhưng không có phương pháp nào phù hợp cho tất cả các hình thức ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da. Chiến lược điều trị cần được cân nhắc và tính toán dựa trên kích thước và vị trí của ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da, bên cạnh các đặc điểm cá nhân của bệnh nhân, chẳng hạn như tuổi tác và khả năng lành vết thương. Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da cần được điều trị phẫu thuật dứt khoát nếu trước đó đã thất bại với hóa trị tại chỗ hoặc phẫu thuật tiêu diệt, do các liệu pháp chữa trị trước đó đã ảnh hưởng đến diện tích bề mặt lớn và có nguy cơ diến tiến thành ung thư xâm lấn.

Ung thư biểu mô vảy tại chỗ điều trị thất bại, đã xấm lấn các tổ chức xung quanh

Ung thư biểu mô vảy tại chỗ điều trị thất bại, đã xấm lấn các tổ chức xung quanh

Ung thư biểu mô vảy tại chỗ của da, hay bệnh Bowen, là tình trạng da nguy hiểm có thể tiến triển thành ung thư xâm lấn nếu không điều trị kịp thời. Nguyên nhân bệnh do nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm tiếp xúc với ánh nắng, chất độc hại và nhiễm virus. Chẩn đoán dựa vào dấu hiệu lâm sàng và mô bệnh học, với nhiều phương pháp điều trị như phẫu thuật và liệu pháp không phẫu thuật. Tiên lượng tốt nhưng nguy cơ cao mắc các loại ung thư da khác. Phát hiện sớm và điều trị là chìa khóa để cải thiện kết quả và chất lượng cuộc sống.



Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.
bác sĩ lựa chọn dịch vụ