Bác sĩ: BSCKI. Vũ Thanh Tuấn
Chuyên khoa: Hô hấp
Năm kinh nghiệm: 7 năm
Ngày nay bệnh ung thư da không còn là một khái niệm xa lạ đối với chúng ta. Đây là một bệnh lý thường gặp và không khó để chẩn đoán. Không tính đến khía cạnh ung thư hắc tố, ung thư da thường hình thành từ biểu mô da được cấu tạo gồm nhiều lớp tế bào bao phủ phía ngoài toàn bộ cơ thể.
Ung thư da được chia thành 3 loại dựa trên nguồn gốc phát triển ung thư, cụ thể đó là:
Ung thư da tế bào đáy: hình thành từ lớp tế bào đáy;
Ung thư da tế bào đáy
Ung thư da biểu mô tế bào vảy: bắt nguồn từ lớp tế bào vảy;
Ung thư các tuyến của da: do bất thường ở các tuyến bã, tuyến mồ hôi phụ thuộc của da.
Theo báo cáo, thường những người da trắng, người cao tuổi và nam giới chiếm tỷ lệ mắc ung thư da cao hơn so với các đối tượng khác. Những khu vực da hở không được che phủ thường dễ bị ung thư và có đến 90% vùng da này nằm tại vị trí đầu, mặt và cổ. Tại Việt Nam, tỷ lệ các trường hợp mắc ung thư da là khoảng 2,9 - 4,5/100.000 người. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh ung thư da hoàn toàn có cơ hội được chữa khỏi.
Tia cực tím: nếu da tiếp xúc trực tiếp, lâu dài với bức xạ từ ánh nắng mặt trời, tia sáng tử ngoại từ đèn hồ quang carbon, thạch anh lạnh, thuỷ ngân,... thì sẽ có nguy cơ cao bị ung thư. Do đó, những người có nghề nghiệp hay phải lao động ngoài trời như nông dân, ngư dân, công nhân cầu đường, công nhân dọn vệ sinh,... thường có khả năng bị bệnh ung thư da;
Bức xạ ion hoá: sau khoảng từ 14 - 15 năm kể từ khi tiếp xúc với bức xạ ion hoá, bệnh nhân thường phát triển căn bệnh ung thư da.
Có rất nhiều các hoá chất gây ung thư tồn tại xung quanh chúng ta như Asen được sử dụng phổ biến trong ngành y tế, công nghiệp, thậm chí ở một số quốc gia trong nước sinh hoạt chứa nồng độ cao chất này. Ngoài ra các chất gây ung thư cũng có trong dầu nhờn, ngựa than đá, nhựa đường, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu,...
Các yếu tố liên quan tới di truyền cũng là những tác nhân phát triển bệnh ung thư da, đó là:
Hội chứng Gardner: đây là hội chứng di truyền trội, tổn thương tập trung ở các nang dưới da và u nang bì;
Hội chứng Gardner: đây là hội chứng di truyền trội, tổn thương tập trung ở các nang dưới da và u nang bì;
Hội chứng tế bào đáy dạng nơ-vi: do sự đột biến trội của nhiễm thể kèm theo các hốc lõm ở lòng bàn tay, bàn chân hoặc các nang xương hàm. Ung thư da tế bào đáy đa ổ kết hợp với xơ da, các bất thường ở cột sống và xương sườn;
Bệnh xơ da nhiễm sắc: các dấu hiệu nhận diện ở thể bệnh này đó là triệu chứng tổn thương da toàn thân: xơ da, da dày, có nhiều vảy bong. Bệnh thường tiến triển trước năm 20 tuổi và cách phòng ngừa chủ yếu là tránh tiếp xúc trực tiếp với bức xạ mặt trời;
Hội chứng Torres: là chứng bệnh di truyền chủ yếu gặp ở những bệnh nhân xơ khô da nhiều ổ. Đáng lưu ý là bệnh thường kết hợp với ung thư bóng vater và ung thư đại tràng.
Tàn nhang: những người trên da có nhiều vết nám, tàn nhang có nguy cơ cao bị ung thư da cao hơn;
Chấn thương ở da hoặc viêm da mạn tính: các tế bào ung thư có khả phát triển và gây bệnh ở những vùng da thương tổn từ trước như: vết xăm da, lỗ dò loét do nằm lâu, lỗ dẫn lưu, vết bỏng da cũ,... và ung thư da do nguyên nhân này thường lan rộng ra các vùng lân cận, di căn hạch vùng;
Nhiễm trùng: một loại virus gây u nhú khá phổ biến ở người đó là HPV. Giữa HPV và ung thư da tế bảo vảy có sự liên quan trực tiếp do các nhà khoa học đã tìm thấy dấu hiệu của HPV tại phần lớn những ca bệnh quá sản biểu mô dạng hạt cơm. Đây là một loại tổn thương đặc biệt báo hiệu tiền ung thư;
Miễn dịch: những bệnh nhân mắc hội chứng suy giảm miễn dịch như HIV/AIDS, ghép tạng,... có tỷ lệ mắc ung thư da cao gấp 16 lần so với người bình thường. Do lá chắn miễn dịch bị suy yếu, nên các ca ung thư da này thường có xu hướng phát triển mạnh và lan rộng tổn thương hơn;
Bệnh Bowen: bệnh này phổ biến hơn ở người cao tuổi và triệu chứng đặc trưng là trên da xuất hiện nhiều vết ban đỏ bờ rõ, có vảy. Khoảng 3 - 5% bệnh nhân bị Bowen tiến triển thành ung thư da;
Bệnh dày sừng quang hoá: các tổn thương được tìm thấy ở bệnh nhân thường là các mảng ban đỏ có vảy, sần sùng tại vị trí vùng da hở như cổ, đầu. Tuy nhiên bệnh hoàn toàn có khả năng chữa khỏi nếu người bệnh sớm thay đổi công việc, giảm tần suất tiếp xúc trực tiếp với bức xạ tia cực tím từ mặt trời. Có từ 1 - 20% trường hợp bị dày sừng quang hoá chuyển thành ung thư da.
Phụ thuộc vào từng thể ung thư da mà bệnh nhân mắc phải sẽ biểu hiện các triệu chứng khác nhau. Ở giai đoạn đầu, ung thư thường gây nhầm lẫn với các tổn thương da thường gặp như lở loét hoặc sẹo cũ,...
- Vị trí xuất hiện: trán, má, mũi, thái dương, vùng mặt;
- Đặc điểm của tổn thương: mới đầu hình thành các vết loét kích thước nhỏ, đóng vảy mỏng, đáy nhẵn nhụi, bờ nông, giãn mao mạch phía mặt đáy, có thể lẫn màu đen và dễ lầm sang ung thư hắc tố;
- Các vết loét thường hình thành từ nốt ruồi, mụn cơm và nốt xơ da nhiễm sắc;
- Tốc độ phát triển của vết loét khá chậm, ít xâm lấn sâu và bờ vết loét thường lan theo bề mặt da;
- Có những bệnh nhân bị loét xâm lấn sâu gây bội nhiễm, để lộ cả xương mặt và nề đỏ xung quanh;
- Đáng chú ý, thể ung thư da tế bào đáy đa số không di căn hạch và không di căn xa sang những bộ phận khác.
- Khu vực phát triển: phần lớn xuất hiện ở da vùng đầu;
Ung thư da biểu mô tế bào vảy
- Ung thư da tế bào vảy thường bắt nguồn từ nền sẹo cũ, ví dụ như sẹo do bỏng;
- Tổn thương có đặc điểm mủn nát ở bề mặt, sần sùi, dễ chảy máu;
- Khối u có tốc độ phát triển nhanh, vết loét sùi lan rộng theo bề mặt nông. Nguy hiểm hơn là khối u có thể xâm lấn vào tận xương sọ, gây bội nhiễm và biến dạng nghiêm trọng;
- Khác với ung thư da tế bào đáy, dạng ung thư da tế bào đáy có xu hướng di căn hạch sang khu vực hạch vùng chẩm, vùng cổ, hạch trước tai, dưới hàm và hạch dưới cằm. Hạch di căn có kết cấu rắn chắc, kích thước to, có thể di căn đơn độc hoặc kéo theo thành đám, hạch cố định hoặc di động.
- Các tuyến phụ thuộc da bao gồm tuyến bã, tuyến mồ hôi;
- Vị trí hình thành: khối u nằm dưới bề mặt da, khi phát tác sẽ đẩy da lồi lên cao và dễ gây nhầm lẫn sang ung thư phần mềm;
- Cấu tạo của tổn thương: khối u dính, chắc, sưng nề đau và màu đỏ, ít di động;
- Khi tiến triển nặng hơn, khối u có thể ăn sâu xuống cấu trúc bên dưới, xâm lấn vào hệ cơ và xương.
Hạn chế để da tiếp xúc trực tiếp với tia nắng mặt trời. Nếu trời nắng, hãy che chắn da bằng kem chống nắng, quần áo dài có độ che phủ cao, ô dù, mũ, khẩu trang,...;
Hạn chế để da tiếp xúc trực tiếp với tia nắng mặt trời
Tránh tắm nắng trong các khung thời gian từ 10h - 16h. Tốt nhất nên tắm nắng vào buổi sáng sớm, không nên tắm nắng quá lâu;
Cần thận trọng đối với những liệu pháp làm đẹp như tắm trắng, tẩy trắng da. Vì các phương pháp này khiến lớp sừng bảo vệ da bị phá huỷ, để lộ ra lớp tế bào non dễ bị tổn thương trước tia bức xạ và các yếu tố độc hại, làm tăng nguy cơ mắc ung thư da;
Trang bị bảo hộ đầy đủ như đeo kính, mặt nạ phòng độc, đi ủng, găng tay, quần áo bảo vệ nếu phải tiếp xúc với các hoá chất và phóng xạ;
Quần áo được làm từ sợi tự nhiên, tối màu có tác dụng bảo vệ da tốt hơn so với quần áo làm từ vải nhân tạo và sáng màu;
Vệ sinh da sạch sẽ, nếu phát hiện các triệu chứng bất thường trên da cần đi khám và điều trị dứt điểm càng sớm càng tốt.
Để xác định bệnh nhân có mắc ung thư da hay không, cần dựa trên những biểu hiện lâm sàng và kết quả xét nghiệm liên quan. Dưới đây là tóm tắt 4 dấu hiệu nhận biết giai đoạn sớm của bệnh ung thư da:
- Nốt ruồi thay đổi kích thước kèm theo triệu chứng loét, sưng đỏ;
- Nền sẹo cũ xuất hiện u hoặc ổ loét;
- Ổ dày sừng nổi cục, lở loét và dễ chảy máu;
- Ổ loét rớm máu hoặc lâu lành.
- Ngoài ra có thể sinh thiết lấy mẫu mô từ tổn thương trên da để chẩn đoán, tìm dấu hiệu ung thư da.
Xác định phương thức điều trị dừa trên loại ung thư, vị trí, đặc điểm khối u, mức độ di căn, lan rộng và giai đoạn tiến triển của bệnh;
Phương pháp phẫu thuật thường được áp dụng chủ yếu để điều trị triệt căn ung thư;
Phương pháp phẫu thuật thường được áp dụng chủ yếu để điều trị triệt căn ung thư
Xạ trị và hoá trị thường không hiệu quả đối với dạng ung thư các tuyến phụ thuộc da. Do đó chỉ có thể ứng dụng phẫu thuật bằng cách cắt bỏ khối u, nạo vét hạch di căn một cách có hệ thống;
Điều trị ung thư kết hợp chống chảy máu, giảm triệu chứng, hạn chế gây đau đớn và nhiễm khuẩn cho người bệnh.
Phẫu thuật:
Đây là kỹ thuật chiếm phần lớn trong công tác điều trị ung thư da (80%);
Nguyên tắc phẫu thuật:
Vét u đủ rộng và phải đảm bảo khu vực xung quanh diện cắt không còn “hình bóng” của tế bào ung thư;
Cần xem xét kỹ lưỡng các yếu tố liên quan như: kích thước, vị trí, bề rộng và mức độ nghiêm trọng của khối u. Sau đó mới tính đến phương diện thẩm mỹ.
Xạ trị:
Thường áp dụng sau phẫu thuật nhằm ngăn ung thư tái phát ;
Đối với thể ung thư da tế bào đáy: dạng này đáp ứng tốt với tia xạ nên xạ trị có thể đem lại hiệu quả ngang với phẫu thuật. Tuy nhiên nếu tổn thương da ở vị trí gần niêm mạc miệng, mũi hoặc gần mắt cần phải chú ý vì dễ dẫn tới bỏng.
Hóa trị:
Hóa chất tại chỗ: thường sử dụng loại kem 5-FU để chữa lành các tổn thương tiền ung thư hoặc trường hợp bị ung thư da biểu mô tế bào đáy nông nhỏ;
Hóa chất toàn thân:
Đối với các loại ung thư da độ ác tính mô học cao thì thường chỉ định áp dụng hoá trị trước khi tiến hành phẫu thuật. Nguyên nhân là do hoá chất có tác dụng kìm hãm và thu nhỏ hạch cũng như khối u, giúp phẫu thuật được thực hiện dễ dàng hơn, giảm thiểu khả năng lan rộng của tế bào ung thư;
Hoá trị cũng được ứng dụng sau khi mổ nhằm ngăn ngừa ung thư tái phát và di căn.
Đối với các ca ung thư da đã di căn, lan rộng không thể chỉ định phẫu thuật, hoá trị hoặc hóa trị kết hợp cùng xạ trị có ý nghĩa giúp xoa dịu triệu chứng và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!