Từ điển bệnh lý

Viêm mô kẽ ống thận : Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ngày 10-05-2023

Tổng quan Viêm mô kẽ ống thận

Viêm mô kẽ ống thận đặc trưng bởi tổn thương chính ở hệ thống ống thận (ống lượn, quai và ống góp) và mô kẽ dẫn đến giảm chức năng thận. Viêm ống kẽ thận cấp thường là do phản ứng thuốc – kim loại nặng, dị ứng hoặc nhiễm trùng.

Viêm mô kẽ ống thận đặc trưng bởi tổn thương chính ở hệ thống ống thận (ống lượn, quai và ống góp) và mô kẽ

Viêm mô kẽ ống thận đặc trưng bởi tổn thương chính ở hệ thống ống thận (ống lượn, quai và ống góp) và mô kẽ

Viêm ống kẽ thận mạn tính tính xảy ra do một loạt các nguyên nhân khác nhau, bao gồm rối loạn di truyền hoặc chuyển hóa, bệnh tiết niệu tắc nghẽn và tiếp xúc mạn tính với độc tố môi trường hoặc một số loại thuốc và thảo mộc, kim loại nặng. Viêm mô kẽ ống thận được chẩn đoán định hướng bởi bệnh sử tiền sử và phân tích nước tiểu và thường được chẩn đoán xác định bằng sinh thiết. Điều trị và tiên lượng khác nhau tùy theo nguyên nhân và khả năng hồi phục của rối loạn tại thời điểm chẩn đoán.


Nguyên nhân Viêm mô kẽ ống thận

Viêm mô kẽ ống thận có thể là nguyên phát, nhưng một quá trình tổn thương tương tự có thể là kết quả của tổn thương cầu thận hoặc rối loạn mạch máu. Viêm ống kẽ thận nguyên phát có thể cấp tính hoặc mạn tính.

Viêm ống kẽ thận cấp

Viêm mô kẽ ống thận cấp (ATIN) liên quan đến sự xâm nhập viêm và phù nề ảnh hưởng đến mô kẽ và ống thận thường phát triển trong nhiều ngày đến vài tháng. Hơn 95% trường hợp là kết quả của nhiễm trùng, phản ứng thuốc, độc chất hoặc dị ứng.

Viêm ống kẽ thận cấp gây tổn thương thận cấp tính; Trường hợp nghiêm trọng, điều trị không kịp thời hoặc tiếp tục dùng thuốc gây độc thận có thể dẫn đến tổn thương thận vĩnh viễn và bệnh thận mạn tính.

Hội chứng thận - mắt, viêm ống kẽ thận cấp kèm theo viêm màng bồ đào, cũng có thể xảy ra mà không tìm được nguyên nhân cụ thể.

Viêm ống kẽ thận mạn tính

Viêm mô kẽ ống thận mạn tính (CTIN) phát sinh khi ống thận bị tổn thương mạn tính gây ra sự thâm nhiễm mô kẽ và xơ hóa dần dần, teo ống và rối loạn chức năng, và suy giảm dần chức năng thận, thường là trong nhiều năm. Viêm cầu thận kèm theo viêm ống kẽ thận phổ biến hơn ở thể mạn tính so với thể cấp tính. Khi có tổn thương viêm cả cầu thận và ống kẽ thận, người ta gọi là viêm thận.

Viêm mô kẽ ống thận mạn tính (CTIN) phát sinh khi ống thận bị tổn thương mạn tính

Viêm mô kẽ ống thận mạn tính (CTIN) phát sinh khi ống thận bị tổn thương mạn tính

Có rất nhiều nguyên nhân chưa được tìm hiểu hết gây viêm ống kẽ thận mạn. bao gồm các rối loạn qua trung gian miễn dịch, nhiễm trùng, bệnh thận trào ngược hoặc bệnh thận tắc nghẽn, thuốc – độc chất và các rối loạn khác. Viêm ống kẽ thận mạn do độc tố, rối loạn chuyển hóa, tăng huyết áp và rối loạn di truyền dẫn đến tổn thương đồng đều cả 2 thận; Khi viêm ống kẽ thận mạn là do các nguyên nhân khác bao gồm tắc nghẽn hoặc trào ngược, nhiễm trùng, tổn thương thận thường không đồng đều và chỉ liên quan đến một quả thận. Một số thể viêm ống kẽ thận mạn đặc trưng bao gồm:

- Bệnh thận do thuốc giảm đau chống viêm không steroid

- Bệnh thận chuyển hoá

- Bệnh thận kim loại nặng

- Bệnh thận trào ngược

- Bệnh thận do đa u tuỷ xương

Bệnh thận trào ngược và đa u tuỷ xương có thể gây tổn thương ống thận nhưng bệnh lý chủ yếu trong những tình trạng này là bệnh cầu thận.

Bệnh thận đa nang di truyền được chia sẻ trong một bài viết khác


Triệu chứng Viêm mô kẽ ống thận

Viêm thận ống cấp tính

Các triệu chứng và dấu hiệu của viêm thận ống cấp tính (ATIN) có thể không đặc hiệu và thường không được phát hiện ra trừ khi đã dẫn đến biến chứng suy thận. Nhiều bệnh nhân tiểu nhiều hoặc tiểu đêm do rối loạn tái hấp thu và bài xuất ống thận.

Khởi phát triệu chứng viêm ống kẽ thận cấp có thể kéo dài đến vài tuần sau khi tiếp xúc với chất độc thận hoặc ngay sau 3 đến 5 ngày sau lần tiếp xúc lần thứ 2; Ngoại lệ thời gian khởi phát có thể rất ngắn, chỉ 1 ngày với rifampicin hoặc có thể lên đến 18 tháng với một loại thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Sốt và phát ban sau khi dùng thuốc gây độc là những biểu hiện ban đầu đặc trưng của viêm mô kẽ ống thận cấp do thuốc gây ra, nhưng bộ ba được mô tả cổ điển của sốt, phát ban và bạch cầu ái toan có mặt ở < 10% bệnh nhân viêm ống kẽ thận do thuốc gây ra. Đau bụng, gầy sút cân và giãn thận hai bên (gây ra bởi phù nề mô kẽ) cũng có thể xảy ra ở viêm mô kẽ ống thận cấp và sốt có thể không phân biệt được với ung thư thận hoặc bệnh thận đa nang. Phù ngoại biên và tăng huyết áp là không phổ biến trừ khi suy thận xảy ra.

Viêm ống kẽ thận mạn tính

Các triệu chứng và dấu hiệu thường vắng mặt trong viêm thận ống mạn tính trừ khi suy thận phát triển. Phù nề thường không xuất hiện, và huyết áp bình thường hoặc chỉ tăng nhẹ trong giai đoạn đầu. Đa niệu và tiểu đêm có thể xảy ra.


Các biện pháp chẩn đoán Viêm mô kẽ ống thận

- Các yếu tố nguy cơ

- Trong viêm ống kẽ thận cấp tính (ATIN), xét nghiệm cặn Addis thường rất nhiều bạch cầu mà không có vi khuẩn

- Sinh thiết thận được chỉ định cho những bệnh nhân cần chẩn đoán xác định hoặc điều trị không hiệu quản

- Chẳn đoán hình ảnh thường để loại trừ các nguyên nhân khác

Rất ít các triệu chứng lâm sàng chỉ có ở viêm ống kẽ thận, triệu chứng thường rất mơ hồ, xét nghiệm nước tiểu cũng chỉ cho thấy đôi chút gợi ý đến viêm ống kẽ thận. Do đó, nên để ý tới viêm ống kẽ thận khi có những biểu hiện sau đây:

- Các triệu chứng hoặc dấu hiệu điển hình của viêm ống kẽ thận

- Các yếu tố nguy cơ, đặc biệt là thời điểm khởi phát triệu chứng và thời điểm sử dụng một loại thuốc lạ có khả năng gây ra tình trạng bệnh

- Xét nghiệm cặn Addis nước tiểu có dấu hiệu đặc trưng với nhiều bạch cầu vô khuẩn

Xét nghiệm cặn Addis nước tiểu có dấu hiệu đặc trưng với nhiều bạch cầu vô khuẩn

Xét nghiệm cặn Addis nước tiểu có dấu hiệu đặc trưng với nhiều bạch cầu vô khuẩn

- Protein niệu dạng vết, thường < 1 g / ngày (ngoại lệ protein niệu cao khi tồnr thương thận do thuốc chống viêm không steroid [NSAID], có thể gây ra protein niệu ngang mức hội chứng thận hư, 3,5 g / ngày)

- Bằng chứng về rối loạn chức năng hoặc tổn thương ống thận (ví dụ, toan hoá ống thận, hội chứng Fanconi)

- Chức năng tái hấp thu và bài tiết tại ống thận không phù hợp với mức độ suy thận

Tăng bạch cầu ái toan không thể được dựa vào để xác định hoặc loại trừ chẩn đoán. Các xét nghiệm hoặc chẩn đoán hình ảnh khác thường là cần thiết để phân biệt viêm ống kẽ thận cấp hoặc mạn tính với các rối loạn khác. Chẩn đoán lâm sàng định hướng của viêm ống kẽ thận cấp thường được thực hiện dựa trên những phát hiện cụ thể được đề cập ở trên, nhưng sinh thiết thận là cần thiết để thiết lập chẩn đoán xác định.

Viêm thận ống cấp tính

Phân tích nước tiểu có dấu hiệu viêm thận hoạt động (nhiều tế bào hồng cầu bạch cầu phản ứng viêm trong cặn Addis), bao gồm các tế bào hồng cầu (RBC), bạch cầu (WBC) và trụ bạch cầu hạt, và không có vi khuẩn trong nuôi cấy nước tiểu là điển hình; tiểu máu và biến biến dạng hồng cầu không phổ biến. Tăng bạch cầu ái toan trong nước tiểu là gợi ý của viêm ống kẽ thận cấp; tuy nhiên, sự hiện diện hoặc vắng mặt của bạch cầu ái toan niệu không đặc biệt hữu ích về mặt chẩn đoán. Đạm niệu thường là tối thiểu nhưng có thể đạt đến phạm vi thận hư với bệnh cầu thận kèm theo gây ra bởi giảm đau chống viêm không steroid, ampicillin, rifampin,interferon alfa, hoặc ranitidine.

Kết quả xét nghiệm máu của rối loạn chức năng ống bao gồm hạ kali máu (gây ra bởi một khiếm khuyết trong tái hấp thu kali tại ống thận) và nhiễm toan chuyển hóa không tăng anion gap (gây ra bởi một khiếm khuyết trong tái hấp thu bicarbonate ống lượn gần hoặc trong bài tiết acid ống lượn xa).

Siêu âm, chụp X quang, hoặc cả hai có thể cần thiết để phân biệt viêm ống kẽ thận cấp tính với các nguyên nhân khác gây tổn thương thận cấp tính khi không thể sinh thiết thận. Trong viêm ống kẽ thận cấp, siêu âm có thể cho thấy thận bị giãn và gây ra tăng âm nhiều vì các tế bào viêm kẽ và phù nề. Xạ hình thận có thể cho thấy thận bị thâm nhiễm bởi các tế bào bạch cầu có đánh dấu phóng xạ gallium-67. Khi có dấu hiệu này trên xạ hình gợi ý nhiều đến viêm ống kẽ thận cấp (và chỉ ra rằng hoại tử ống cấp tính ít có khả năng xảy ra), nhưng nếu không có thì cũng không thể loại trừ.

Sinh thiết thận thường được dành riêng cho những bệnh nhân như sau:

- Chẩn đoán không chắc chắn

- Tổn thương thận tiến triển

- Không có cải thiện sau khi dừng các loại thuốc nghi ngờ độc thận

- Những phát hiện cho thấy bệnh có thể xảy ra và đang ở giai đoạn sớm

- Viêm ống kẽ thận cấp do thuốc đang được xem xét điều trị ức chế miễn dịch

Trong viêm mô kẽ ống thận cấp tính, cầu thận thường bình thường. Phát hiện sớm nhất là phù kẽ, thường tiếp theo là xâm nhập kẽ với tế bào lympho, tế bào giàu bào tương, bạch cầu ái toan và một vài bạch cầu đa hình. Trong trường hợp nghiêm trọng, các tế bào viêm có thể được nhìn thấy xâm chiếm không gian giữa các tế bào biểu mô ống thận (hoại tử ống thận cấp); trong các mẫu sinh thiết khác, các phản ứng hạt do tiếp xúc với kháng sinh beta-lactam, sulfonamides, mycobacteria hoặc nấm có thể được nhìn thấy. Sự hiện diện của u hạt không viêm cho thấy sarcoidosis. Miễn dịch huỳnh quang hoặc kính hiển vi điện tử hiếm khi tiết lộ bất kỳ thay đổi nào.

Viêm ống kẽ thận mạn tính

Những phát hiện của viêm mô kẽ ống thận mạn thường tương tự như cấp tính, nhưng thường không có hoặc có rất ít tế bào máu trong nước tiểu. Bởi vì viêm mỗ kẽ ống thận mạn tiến triển âm thầm và ưu thế tổn thương xơ kẽ là phổ biến hơn so với tổn thương ống, các chẩn đoán hình ảnh có thể cho thấy thận nhỏ với bằng chứng về xơ hoá và bất đối xứng 2 bên.

Trong viêm ống kẽ thận mạn tính, sinh thiết thận thường không được thực hiện cho mục đích chẩn đoán nhưng đã giúp mô tả bản chất và sự tiến triển của bệnh. Cầu thận có thể không bị tổn thương hoặc cũng có thể bị phá hủy hoàn toàn. Ống thận có thể mất chức năng hoặc teo nhỏ. Các ống thận co giãn bất thường khác nhau về đường kính nhưng có thể cho thấy sự giãn nở rõ rệt, với các đúc đồng nhất. Mô kẽ chứa các mức độ khác nhau của các tế bào viêm và xơ hóa. Các khu vực không bị tổn thương xuất hiện gần như bình thường. Nói một cách chung chung, thận bị nhỏ và teo.

Tiên lượng

Viêm ống kẽ thận cấp

Trong viêm mô kẽ ống thận do thuốc gây ra, chức năng thận thường phục hồi trong vòng 6 đến 8 tuần khi ngừng thuốc độc thận, mặc dù một số tồn dư tổn thương còn sót lại là phổ biến. Phục hồi có thể không đầy đủ, với tăng ure, creatinin máu dai dẳng trên mức trung bình. Tiên lượng thường tồi tệ hơn nếu Viêm ông kẽ thận là do thuốc giảm đau chống viêm không steroid gây ra so với các loại thuốc khác. Khi các yếu tố khác gây ra viêm ống kẽ thận, thay đổi mô học thường có thể đảo ngược nếu nguyên nhân được nhận ra và loại bỏ; tuy nhiên, một số trường hợp nghiêm trọng tiến triển thành xơ hóa và bệnh thận mãn tính . Bất kể nguyên nhân, tổn thương không thể đảo ngược được gợi ý bởi những dấu hiệu sau đây:

- Xơ hoá khoảng kẽ lan toả thay vì cục bộ

- Xơ hóa kẽ nghiêm trọng

- Đáp ứng chậm trễ đối với thuốc ức chế miễn dịch

- Tổn thương thận cấp tính kéo dài >3 tuần

Viêm mô kẽ ống thận mạn tính

Trong viêm ống kẽ thận mạn, tiên lượng phụ thuộc vào nguyên nhân và khả năng nhận biết và dừng quá trình trước khi xơ hóa không thể đảo ngược xảy ra. Nhiều nguyên nhân di truyền (ví dụ, bệnh thận đa nang), chuyển hoá (ví dụ, rối loạn chuyển hoá cystin) và các nguyên nhân độc hại (ví dụ, kim loại nặng) có thể không thể thay đổi, trong trường hợp đó viêm ống kẽ thận mạn thường tiến triển thành bệnh thận giai đoạn cuối .


Các biện pháp điều trị Viêm mô kẽ ống thận

- Điều trị nguyên nhân (ví dụ: ngừng thuốc gây bệnh)

- Corticosteroid chỉ dùng khi có viêm ống kẽ cấp tính qua trung gian miễn dịch và đôi khi do thuốc gây ra

Điều trị chung giữa viêm ống kẽ thận cấp và mạn là quản lý loại trừ nguyên nhân.

Đối với viêm ống kẽ thận cấp do miễn dịch gây ra và đôi khi do thuốc gây ra, corticosteroid (ví dụ, prednisone 1 mg / kg uống một lần / ngày với giảm dần liều trong 4 đến 6 tuần) có thể đẩy nhanh quá trình phục hồi.

Đối với viêm ống kẽ thận do thuốc, corticosteroid có hiệu quả nhất khi dùng trong vòng 2 tuần sau khi ngừng các loại thuốc gây bệnh. Viêm ống kẽ thận cấp do chống viêm không steroid gây ra ít đáp ứng với corticosteroid hơn so với do thuốc khác gây ra. Viêm ống kẽ thận cấp nên được chứng minh bằng sinh thiết trước khi corticosteroid được bắt đầu.

Điều trị viêm ống kẽ thận mạn tính thường đòi hỏi các biện pháp hỗ trợ như kiểm soát huyết áp và điều trị thiếu máu liên quan đến bệnh thận. Ở những bệnh nhân bị viêm ống kẽ thận mạn tính và tổn thương thận tiến triển, các chất ức chế enzyme chuyển đổi angiotensin (ACE) hoặc thuốc chẹn thụ thể angiotensin II (ARBs) có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh nhưng không nên được sử dụng cùng nhau vì nguy cơ tăng kali máu và đẩy nhanh tiến triển bệnh.


Tài liệu tham khảo:

  • Joyce E, Glasner P, Ranganathan S, Swiatecka-Urban A. Tubulointerstitial nephritis: diagnosis, treatment, and monitoring. Pediatr Nephrol. 2017
  • Jenish Bhandari et al. Tubulointerstitial Nephritis. StatPearls. 2021
  • Ruebner RL, Fadrowski JJ. Tubulointerstitial Nephritis. Pediatr Clin North Am. 2019

Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.