Các tin tức tại MEDlatec
AMH (Anti-Müllerian Hormone): Một dấu ấn mới giúp đánh giá chức năng của buồng trứng và tinh hoàn
AMH là một hormone glycoprotein được sản xuất bởi các nang trứng, gồm 2 chuỗi polypeptide, gắn với nhau bằng liên kết disulphide, có khối lượng phân tử 140 kDa. Ở bào thai bé trai, AMH được sản xuất mạnh ở các tế bào Sertoli của tinh hoàn, đóng vai trò chủ yếu trong sự thoái hóa các ống Müllerian, sau 2 tuổi giảm dần xuống đến các giá trị thấp dạng vết khi trưởng thành [1]. Ở bào thai bé gái, không có AMH, các ống Müllerian không bị ức chế, phát triển thành các cơ quan sinh dục nữ. Ở phụ nữ, AMH được bài tiết bởi các tế bào granulosa của các nang trứng, giảm dần đến mức không thể phát hiện được ở thời kỳ mãn kinh. Vì vậy, có thể đánh giá chức năng sinh sản của buồng trứng thông qua việc định lượng AMH trong huyết tương [2, 9].
Hiện nay, AMH được định lượng bằng phương pháp miễn dịch enzym (Enzyme-linked immino-sorbent assay: AMH Gen II ELISA), được thực hiện hàng ngày tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC số 42 Nghĩa Dũng, Ba Đình, Hà Nội. 1. Chỉ định 1.1. Đối với phụ nữ: xét nghiệm AMH được chỉ định để: - Đánh giá khả năng sinh sản của buồng trứng [9]. - Đánh giá đáp ứng của buồng trứng đối với liệu pháp kích buồng trứng để phục vụ cho liệu pháp thụ tinh trong ống nghiệm IVF (In vitro fertilization) [4, 7] hoặc liệu pháp tiêm tinh trùng vào bào tương của trứng ICSI (Intracytoplasmic sperm injection) trong thụ tinh nhân tạo. - Góp phần chẩn đoán Hội chứng buồng trứng đa nang. - Đánh giá và theo dõi ung thư buồng trứng. - Dự báo thời gian mãn kinh. 1.2. Đối với bé trai: xét nghiệm AMH được chỉ định để: - Chẩn đoán phân biệt rối loạn giới tính: không có tinh hoàn hoặc không phát triển giới tính nam. - Chẩn đoán tinh hoàn lạc chỗ [3]. 2. Ý nghĩa lâm sàng 2.1. Đối với phụ nữ: - Đánh giá khả năng sinh sản của buồng trứng: Nồng độ AMH trong máu (tính bằng ng/mL) tương quan trực tiếp với số lượng nang trứng, ít thay đổi trong chu kỳ kinh nguyệt [5] nên có thể sử dụng để đánh giá khả năng sinh sản của buồng trứng tốt hơn so với FSH [9].
+ Khả năng sinh sản tối ưu: 4,0 - 6,8
+ Khả năng sinh sản tốt: 2,2 - 4,0
+ Khả năng sinh sản kém: 0,3 - 2,2
+ Khả năng sinh sản rất kém: 0,0 - 0,3 - Đánh giá đáp ứng của buồng trứng đối với liệu pháp kích buồng trứng: Nồng độ AMH cũng tương quan chặt chẽ với số lượng noãn (oocytes) nên có thể sử dụng để đánh giá đáp ứng của buồng trứng đối với liệu pháp kích buồng trứng để phục vụ cho liệu pháp thụ tinh trong ống nghiệm IVF (In vitro fertilization) [4] hoặc liệu pháp tiêm tinh trùng vào bào tương của trứng ICSI (Intracytoplasmic sperm injection) trong thụ tinh nhân tạo. - Chẩn đoán Hội chứng buồng trứng đa: Trong Hội chứng buồng trứng đa nang, nồng độ AMH trong máu thường > 6,8 ng/mL. - Đánh giá và theo dõi ung thư buồng trứng: nồng độ AMH có thể được sử dụng để chẩn đoán ung thư tế bào granulosa buồng trứng với độ nhạy khoảng 76 đến 93%. Nồng độ AMH giảm vài ngày sau phẫu thuật khối u buồng trứng và lại tăng lên nếu u tái phát [6]. - Dự báo thời gian mãn kinh: Ở phụ nữ, nồng độ AMH giảm dần theo tuổi. Nồng độ AMH có thể được sử dụng để dự báo thời kỳ mãn kinh [8]. AMH có giá trị dự báo thời kỳ mãn kinh tốt hơn so với FSH. Nếu AMH < 0,2 ng/mL, lứa tuổi 35-39 sẽ mãn kinh sau 9,94 năm, lứa tuổi 45 – 48 sẽ mãn kinh sau 5,99 năm (Freeman et al., 2012). 2.2. Đối với bé trai: - Chẩn đoán phân biệt rối loạn giới tính: nồng độ AMH trong máu bằng không hoặc rất thấp và nồng độ các androgen trong máu thấp: không có tinh hoàn hoặc không phát triển giới tính nam. - Chẩn đoán tinh hoàn lạc chỗ: khám không thấy có tinh hoàn nhưng nồng độ AMH và các androgen bình thường [3].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aksglaede L, Sørensen K, Boas M, Mouritsen A, Hagen CP, Jensen RB, et al. Changes in Anti-Müllerian Hormone (AMH) throughout the Life Span: A Population-Based Study of 1027 Healthy Males from Birth (Cord Blood) to the Age of 69 Years. J Clin Endocrinol Metab 2010; 95: 5357-5364.
2. Barad DH, Weghofer A, Gleicher N. Comparing anti-Müllerian hormone (AMH) and follicle-stimulating hormone (FSH) as predictors of ovarian function. Fertil Steril 2009; 91:1553-1555.
3. Grinspon RP, Rey RA. Anti-Müllerian hormone and Sertoli cell function in pediatric male hypogonadism. Horm Res Paediatr 2010; 73: 81-92.
4. Jayaprakasan K, Campbell B, Hopkisson J, Johnson I, Raine-Fenning N. A prospective, comparative analysis of anti-Müllerian hormone, inhibin-B, and three-dimensional ultrasound determinants of ovarian reserve in the prediction of poor response to controlled ovarian stimulation. Fertil Steril 2010; 93: 855-864.
5. La Marca A, Stabile G, Carducci Artenisio A, Volpe A. Serum anti-Müllerian hormone throughout the human menstrual cycle. Hum Reprod 2006; 21: 3103-3107.
6. La Marca A, Volpe A.The Anti-Müllerian hormone and ovarian cancer. Hum Reprod Update 2007; 13: 265-273.
7. Nelson SM, Messow MC, Wallace AM, Fleming R, McConnachie A. Nomogram for the decline in serum antimüllerian hormone: a population study of 9,601 infertility patients. Fertil Steril 2011; 95: 736-741.
8. Freeman EW, Sammel MD, Lin H, Gracia CR. Anti-mullerian hormone as a predictor of time to menopause in late reproductive age women. J Clin Endocrinol Metab 2012; 97(5):1673 - 1680.
9. Visser JA, de Jong FH, Laven JS, Themmen AP. Anti-Müllerian hormone: a new marker for ovarian function. Reproduction 2006; 131 (1): 1 - 9.
Lựa chọn dịch vụ
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!