Từ điển bệnh lý

Bệnh sốt vàng : Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ngày 10-05-2023

Tổng quan Bệnh sốt vàng

Sốt vàng là bệnh truyền nhiễm cấp tính, căn nguyên gây bệnh là virus, gây nhiễm trùng ở người và động vật linh trưởng với vector truyền bệnh chính là muỗi Aedes. Bệnh thường gặp ở vùng Nam Mỹ và Châu Phi với biểu hiện nhiễm trùng cấp tính, rối loạn chức năng gan, rối loạn chức năng thận, rối loạn đông máu và tiên lượng tử vong cao nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Chẩn đoán bệnh dựa vào khai thác dịch tễ, triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên virus. Biện pháp điều trị chính vẫn là điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Vắc xin đặc hiệu với virus đã được chứng minh hiệu quả miễn dịch tốt và là biện pháp phòng bệnh chính đặc biệt với các đối tượng nguy cơ nhiễm bệnh cao

Bệnh sốt vàng là bệnh truyền nhiễm cấp tính, căn nguyên gây bệnh là virus, gây nhiễm trùng ở người và động vật linh trưởng

Bệnh sốt vàng là bệnh truyền nhiễm cấp tính, căn nguyên gây bệnh là virus, gây nhiễm trùng ở người và động vật linh trưởng


Nguyên nhân Bệnh sốt vàng

Virus gây bệnh sốt vàng thuộc họ Flaviviridae, vật chất di truyền là RNA sợi đơn, khoảng 40 – 69 nm. Virus gây bệnh có một type huyết thanh duy nhất và có 7 kiểu gen chính đã được biết đến. Virus có thể gây bệnh ở cả con người và các loài động vật linh trưởng khác. Khi bị muỗi đốt, virus xâm nhập vào cơ thể con người, theo hạch bạch huyết đến gây bệnh nhiều cơ quan khác như tổn thương gan, tổn thương thận, tổn thương cơ tim, rối loạn chức năng đông máu,…

Bệnh sốt vàng xảy ra ở các khu vực Nam Mỹ và vùng nhiệt đới Châu Phi cận Sahara lây truyền qua virus gây bệnh 

Bệnh sốt vàng xảy ra ở các khu vực Nam Mỹ và vùng nhiệt đới Châu Phi cận Sahara lây truyền qua virus gây bệnh 

Bệnh sốt vàng thường xảy ra ở khu vực Nam Mỹ và vùng nhiệt đới Châu Phi cận Sahara. Bên cạnh đó, ghi nhận các ca bệnh lẻ tẻ tại một số quốc gia tại Châu Á như Trung Quốc,…


Triệu chứng Bệnh sốt vàng

Biểu hiện cấp tính. Thời kỳ khởi phát thường xuất hiện khoảng 3 – 6 ngày từ khi bị muỗi Aedes đốt. Người bệnh có các triệu chứng không đặc hiệu giống nhiễm trùng virus thông thường khác như như sốt cao, 39 – 41 độ C, mệt mỏi, khó chịu, đau mỏi người, đau nhức cơ xương khớp, đau đầu, chán ăn, buồn nôn,… Thăm khám thực thế có thể thấy: da và kết mạc sung huyết, lưỡi đỏ, mạch tương đối chậm không tương xứng với nhiệt độ cơ thể cao, ấn đau thượng vị, gan to, đau, trường hợp nặng có thể có dấu hiệu vàng da. Các bất thường xét nghiệm có thể ghi nhận: công thức máu thấy giảm số lượng bạch cầu xảy ra nhanh và sớm ngay từ những ngày đầu mắc bệnh, tăng men transaminase AST, ALT, các marker viêm như CRP, procalciton thường bình thường hoặc tăng nhẹ,… Giai đoạn này không thể phân biệt bệnh sốt vàng với nhiễm trùng cấp tính khác.

Người bệnh có biểu hiện sốt cao, mệt mỏi, khó chịu

Người bệnh có biểu hiện sốt cao, mệt mỏi, khó chịu

Người bệnh có thể chuyển sang thời kỳ bệnh thuyên giảm kéo dài khoảng 48 giờ, các triệu chứng lâm sàng cải thiện, sốt giảm, người bệnh cảm thấy khỏe hơn, các xét nghiệm dần trở về ngưỡng bình thường. Tuy nhiên khoảng 15 % người bệnh diễn biến nặng( sốt vàng nặng) với triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc rầm rộ và biểu hiện rối loạn chức năng nhiều cơ quan. Diễn biến nặng lên thường xảy ra từ khoảng ngày thứ 3 đến ngày thứ 6 sau thời kỳ khởi phát, người bệnh sốt cao trở lại, người mệt lử, vàng da, nôn, buồn nôn, đau bụng vùng thượng bị, rối loạn chức năng gan, thận, tim mạch,… Cơ chế gây bệnh liên quan đến cơn bão cytokine.

Rối loạn chức năng gan: tổn thương viêm gan biểu hiện trên xét nghiệm như men AST, ALT tăng cao và rất cao, bilirubin tăng cao, tỉ lệ albumin giảm, tỉ lệ prothrombin giảm,…

Rối loạn chức năng thận: thiểu niệu hoặc vô niệu, đái máu, xét nghiệm ure và creatinin huyết tương tăng. Tỉ lệ tử vong cao.

Xuất huyết nặng: biểu hiện xuất huyết dưới da và xuất huyết niêm mạc. Bệnh nhân chảy máu rầm rộ, chảy máu niêm mạc miệng, mũi, ho máu, nôn máu, đi ngoài phân máu, tiểu máu, hành kinh bất thường và số lượng nhiều ở phụ nữ,… Trường hợp xuất huyết nặng có thể gây sốc giảm thể tích. Người bệnh có biểu hiện đông máu rải rác trong lòng mạch. Các bất thường về xét nghiệm ghi nhận: giảm tiểu cầu, tỉ lệ prothrombin giảm, các yếu tố đông máu như yếu tố II, V, VII, IX, X giảm, D-dimer tăng cao, …

Tổn thương hệ tim mạch: điện tâm đồ có thể biến đổi bất thường như nhịp chậm, bất thường ST-T, sóng T cao, ngoại tâm thu. Viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim thường xảy ra, góp phần làm nặng lên diễn biến lâm sàng của người bệnh.

Rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương: người bệnh có thể mê sảng, lú lẫn, ảnh hưởng tri giác, rối loạn ý thức, kích động, co giật toàn thân. Dịch não tủy có thể biến đổi trong trường hợp nặng, áp lực tăng, lượng protein tăng, tế bào bạch cầu thường không tăng. Tuy nhiên, tổn thương viêm não do sốt vàng là cực kỳ hiếm gặp.

Viêm tụy: có thể gặp các biểu hiện của viêm tụy cấp.

Rối loạn nước và điện giải, rối loạn thăng bằng toan – kiềm ( toan chuyển hóa).

Nếu không được chẩn đoán và hồi sức tích cực kịp thời, tỉ lệ tử vong cao, khoảng 20 – 50% khác nhau trong các báo cáo. Thời gian hồi phục thường kéo dài, thậm chí hàng tháng.


Các biến chứng Bệnh sốt vàng

Biến chứng có thể gặp như: bôi nhiễm vi khuẩn( viêm phổi, viêm tuyến mang tai, nhiễm khuẩn huyết,…); suy đa tạng; xuất huyết nội tạng; đông máu rải rác trong lòng mạch; viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, suy tim; sốc nhiễm khuẩn; sốc giảm thể tích; thậm chí tử vong. Cần chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và theo dõi sát người bệnh.

Biến chứng có thể gặp của căn bệnh sốt vàng rất nhiều viêm cơ tim, suy đa tạng,.. nguy hiểm hơn có thể gây tử vong 


Đường lây truyền Bệnh sốt vàng

Vector truyền bệnh chính và ổ chứa tự nhiên của virus là muỗi Aedes. Virus lan truyền theo đường máu từ người và động vật bị bệnh sang người lành khi bị muỗi đốt. Đã ghi nhận virus có thể lây truyền từ người sang người thông qua con đường truyền máu hoặc các chế phẩm máu hoặc ghép tạng,… Virus không lây truyền qua các con đường lây truyền khác như đường hô hấp, đường tiêu hóa, tiếp xúc thông thường,… Ở Nam Mỹ, ghi nhận lây truyền từ loài khỉ sang người qua vector trung gian muỗi Aedes.


Đối tượng nguy cơ Bệnh sốt vàng

Như trên đã trình bày, bệnh sốt vàng hay gặp ở vùng Nam Mỹ( ví dụ Brazil), vùng nhiệt đới Châu Phi cận Sahara. Tất cả các đối tượng đều có thể mắc bệnh, đặc biệt là trẻ nhỏ, tỉ lệ tử vong cao ở người cao tuổi. Vào mùa mưa, muỗi Aedes phát triển mạnh, trong hốc cây chứa nước mưa, các dụng cụ chứa nước tại khu vực nhà ở,… Những người sống tại khu vực này, hoặc du lịch đến khu vực này vào mùa muỗi sinh trưởng mạnh tăng nguy cơ mắc bệnh. Tốc độ lan truyền của virus tương đối nhanh, có thể gây thành dịch. Ngoài ra, nếu truyền máu và các chế phẩm máu hoặc nhận tạng ghép của người bị nhiễm virus, cũng tăng nguy cơ mắc bệnh.

Bệnh sốt vàng lây truyền qua muỗi Aedes, vì vậy ai cũng có thể mắc bệnh 

Bệnh sốt vàng lây truyền qua muỗi Aedes, vì vậy ai cũng có thể mắc bệnh 


Phòng ngừa Bệnh sốt vàng

Do virus gây bệnh chỉ có một type huyết thanh duy nhất, nên khi tiêm vắc xin có thể chống lại tất cả các chủng virus gây bệnh. Do đó, tiêm vắc xin phòng bệnh là biện pháp rất hữu ích và quan trọng nhất. Có nhiều loại vắc xin phòng bệnh sốt vàng được sản xuất tại Mỹ, Pháp, các quốc gia Châu Âu khác, đa số là vắc xin sống giảm động lực. Chỉ định tiêm cho các đối tượng từ 9 tháng tuổi trở lên, do tác dụng phụ nghiêm trọng đã ghi nhận ở các đối tượng dưới 9 tháng tuổi. Những đối tượng cần được tiêm phòng gồm: người sống và làm việc tại khu vực lưu hành bệnh, khách du lịch đến các khu vực lưu hành bệnh,… chưa có khuyến cáo tiêm nhắc lại vắc xin đặc biệt đối với khách du lịch. Globulin đặc hiệu với bệnh sốt vàng hiện vẫn chưa có.

Các biện pháp phòng bệnh không đặc hiệu như diệt bọ gậy và diệt muỗi Aedes, tuyên truyền và nâng cao sức khỏe, nâng cao hiểu biết, vệ sinh môi trường sống và vệ sinh thân thể, phát hiện sớm và điều trị kịp thời người bệnh,…


Các biện pháp chẩn đoán Bệnh sốt vàng

Chẩn đoán dựa vào các yếu tố dịch tễ ( sống, du lịch hoặc đến làm việc tại các khu vực lưu hành bệnh như Châu Phi, Nam Mỹ,..), triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng ( mô tả trên) và các xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên virus.

Cần phải thực hiện để phát hiện chính xác có bị bệnh hay không 

Cần phải thực hiện để phát hiện chính xác có bị bệnh hay không 

Các xét nghiệm chẩn đoán căn nguyên virus bao gồm:

Xét nghiệm huyết thanh học: phát hiện kháng thể IgM đặc hiệu với virus gây bệnh bằng kỹ thuật ELISA. Hiệu giá kháng thể IgM tăng có ý nghĩa chẩn đoán. Tuy nhiên xét nghiệm kháng thể IgM có một số hạn chế như: có thể dương tính chéo với một số loài Flavivirus khác, kết quả có thể dương tính ở người bệnh đã từng được tiêm vắc xin đặc hiệu với virus gây bệnh sốt vàng,…

Xét nghiệm PCR RNA virus: bệnh phẩm thường được sử dụng là máu hoặc mô cơ quan khác, nhằm phát hiện vật chất di truyền RNA của virus. Tuy nhiên xét nghiệm này cần yêu cầu kỹ thuật hiện đại và đắt tiền.

Nuôi cấy và phân lập virus: tế bào vật chủ thường dùng là cơ thể muỗi hoặc tế bào động vật có vú, … Virus có thể được phát hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, ngay cả khi người bệnh chưa có biểu hiện vàng da trên lâm sàng. Hạn chế của kỹ thuật này là thời gian cho kết quả lâu và yêu cầu kỹ thuật máy móc hiện đại.

Bệnh sốt vàng cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh như: tổn thương gan do các virus viêm gan khác (virus viêm gan A, B, C, D, E); bệnh cúm; sốt xuất huyết do các căn nguyên virus khác (ví dụ sốt xuất huyết Dengue nặng,…), sốt rét, bệnh thương hàn, bệnh do Leptospira, sốt Q,…


Các biện pháp điều trị Bệnh sốt vàng

Hiện chưa có thuốc kháng virus được chứng minh hiệu quả, các biện pháp điều trị chính vẫn là điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Những trường hợp nặng, cần chuyển người bệnh đến các đơn vị hồi sức tích cực.

Các biện pháp điều trị triệu chứng, hỗ trợ: người bệnh cần nghỉ ngơi tuyệt đối; hạ sốt bằng paracetamol liều 10 – 15 mg/kg/ lần khi sốt từ 38,5 độ C, mỗi lần cách nhau từ 4 – 6 tiếng, chú ý tác dụng phụ trên gan của paracetamol; hạn chế sử dụng các thuốc chuyển hóa qua gan và gây độc cho gan; bù dịch đảm bảo khối lượng tuần hoàn, sử dụng các thuốc vận mạch khi có chỉ định; điều chỉnh rối loạn điện giải; đảm bảo thăng bằng – kiềm toan; hỗ trợ hô hấp; đảm bảo chế độ dinh dưỡng; truyền các chế phẩm máu khi có chỉ định như tiểu cầu, huyết tương tươi đông lạnh; lọc máu nếu tình trạng toan chuyển hóa nặng; điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm khi có bội nhiễm vi khuẩn,…

Liệu pháp kháng virus: đã và đang được nghiên cứu. Ribavirin với nồng độ rất cao có thể chống lại virus gây bệnh nhưng không đạt được hiệu quả trên lâm sàng. Các kháng thể đơn dòng đã được sử dụng tuy nhiên hiệu quả lâm sàng là chưa chắc chắn và cần nghiên cứu thêm


Tài liệu tham khảo:

  • World Health Organization. Yellow Fever – Angola
  • ProMED mail. Yellow fever - Countries with dengue: Alert
  • World Health Organization. Yellow Fever - China
  • World Health Organization. Yellow fever - Brazil
  • Centers for Disease Control and Prevention. Search for Yellow Fever
  • Leslie V. Simon; Muhammad F. Hashmi; Klaus D. Torp. Yellow Fever. StatPearls

Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.