Bác sĩ: Bác sĩ. Võ Thị Lê
Chuyên khoa:
Năm kinh nghiệm:
Đa u mô thừa đường mật là dị tật lành tính hiếm gặp của ống mật trong gan được Von Meyenburg mô tả lần đầu tiên vào năm 1918. Vì vậy, đa u mô thừa đường mật (Biliary Hamartomas) hay còn được gọi là phức hợp Von Meyenburg. Đây là một tổn thương hiếm gặp bao gồm những nang rất nhỏ nằm rải rác khắp gan và là tổn thương lành tính. Biliary Hamartomas được tạo thành do sự bất thường trong quá trình phát triển của ống mật trong thời kỳ bào thai.
Đặc điểm các khối u này thường có kích thước nhỏ, thường dưới 1,5 cm, ít khi có triệu chứng vì vậy chủ yếu phát hiện tình cờ qua quá trình phẫu thuật, qua chụp chiếu như siêu âm, cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ hoặc qua giải phẫu tử thi.
Biliary Hamartomas thường không có nguy cơ ác tính hóa tuy nhiên trên lâm sàng thầy thuốc có thể nhầm lẫn trường hợp này với ung thư gan hoặc di căn gan trên chẩn đoán hình ảnh.
Đa u mô thừa đường mật không cần điều trị nếu như không có triệu chứng lâm sàng.
Đa u mô thừa đường mật liên quan đến bất thường đường mật từ trong bào thai
Nguyên nhân của đa u mô thừa đường mật chưa được xác định rõ ràng nhưng theo nhiều nghiên cứu cho rằng đây là một bất thường bẩm sinh có liên quan đến sự phát triển của hệ thống ống mật từ trong giai đoạn bào thai.
Cơ chế hình thành: Trong quá trình phát triển phôi thai, hệ thống ống mật hình thành từ mầm gan nguyên thủy. Nếu quá trình này bị không hoàn chỉnh và bị gián đoạn, một số ống mật nhỏ có thể bị mắc kẹt trong nhu mô gan, không kết nối với hệ thống ống mật chính. Các ống mật bị mắc kẹt lại này dần dần sẽ giãn nở và hình thành các nốt hamartoma, chứa dịch mật và mô sợi.
Bất thường bẩm sinh từ trong bụng mẹ này ở gan thường được coi là một dị tật lành tính, không phải ung thư hay do nhiễm trùng, có thể liên quan yếu tố di truyền tuy nhiên vẫn còn chưa có nhiều bằng chứng, ngoài ra đa u mô thừa đường mật đôi khi có thể liên quan đến bệnh xơ gan mật nguyên phát hoặc bệnh lý gan đa nang.
Thông thường các hamartomas đường mật sẽ không có triệu chứng rõ rệt và chỉ được phát hiện tình cờ qua các xét nghiệm hình ảnh như siêu âm hoặc MRI. Tuy nhiên chúng ta có thể gặp những triệu chứng sau đây ở một số bệnh nhân, bao gồm:
Triệu chứng lâm sàng:
Đau bụng âm ỉ hạ sườn phải: Đau thường xuất hiện khi có sỏi trong đường mật hoặc nhiễm trùng. Tuy nhiên đa phần cảm giác đau này của bệnh nhân khá mơ hồ.
Vàng da và vàng mắt: Vàng da có thể xảy ra khi có tắc nghẽn đường mật, tuy nhiên, triệu chứng này không phải lúc nào cũng xuất hiện nếu bệnh không tiến triển hoặc không có biến chứng.
Sốt: Nếu có nhiễm trùng đường mật, người bệnh có thể bị sốt.
Mệt mỏi và suy nhược: Một số bệnh nhân có thể mệt mỏi và thiếu năng lượng, đặc biệt khi có viêm đường mật tái phát.
Buồn nôn, chán ăn.
Bệnh nhân đa u mô thừa đường mật có thể vàng da
Cận lâm sàng:
Siêu âm gan có nhiều nang nhỏ kích thước dưới 15mm rải rác khắp gan.
CT/MRI: Các nang giảm đậm độ trên CT và trên MRI có các tín hiệu đặc trưng như T2W tăng tín hiệu, T1W giảm tín hiệu.
Xét nghiệm máu: đa phần sẽ bình thường trừ khi bệnh nhân có các biến chứng như viêm hay tắc nghẽn đường mật.
Hamartomas đường mật đa phần lành tính và ít khi để lại biến chứng, tuy nhiên một số trường hợp chúng ta có thể gặp các biến chứng sau đây:
Ảnh hưởng chức năng gan: rất hiếm gặp Hamartomas đường mật gây xơ gan, một số trường hợp nếu nhiều nang tổn thương lan tỏa trong gan theo thời gian có thể làm gan xơ hóa nhẹ.
Vì vậy, mặc dù đa u mô thừa đường mật thường lành tính và ít khi có biến chứng, nhưng trong một số trường hợp có thể gây viêm đường mật, sỏi trong gan, hoặc nhầm lẫn với ung thư. Vì vậy, bệnh nhân cần được theo dõi qua hình ảnh học nếu có các triệu chứng bất thường nghi ngờ.
Biliary hamartomas thường không có triệu chứng lâm sàng hoặc triệu chứng không rõ ràng dễ nhầm lẫn với các bệnh lý gan mật khác, vì vậy để chẩn đoán xác định căn bệnh này thầy thuốc chủ yếu dựa vào hỗ trợ của các xét nghiệm hình ảnh, đặc biệt là siêu âm và chụp cộng hưởng từ mật tụy MRCP.
Chẩn đoán lâm sàng:
Chẩn đoán hình ảnh:
MRI có vai trò quan trọng trong chẩn đoán đa u mô thừa đường mật
Đa u mô thừa đường mật đa phần lành tính và ít có triệu chứng hay là gây ra các biến chứng nào nguy hiểm, vì vậy điều trị bệnh này đa phần là bảo tồn, chỉ khi có biến chứng yêu cầu phẫu thuật thì thầy thuốc mới tiến hành can thiệp. Một số liệu pháp có thể sử dụng trong điều trị biliary hamartomas, bao gồm:
Điều trị bảo tồn:
Theo dõi thường xuyên:
Điều trị triệu chứng:
Điều trị phẫu thuật là rất ít khi chỉ định, trừ khi có các biến chứng nặng như tắc nghẽn đường mật, viêm đường mật tái phát nhiều lần hoặc khi nghi ngờ bệnh có tiến triển ung thư hóa. Thầy thuốc sẽ tiến hành phẫu thuật để cắt bỏ tổn thương lớn hoặc tổn thương gây ra tình trạng tắc nghẽn đường mật hoặc tổn thương nghi ngờ ung thư. Những tổn thương nghi ngờ ung thư sau khi được loại bỏ bắt buộc làm giải phẫu bệnh để kiểm tra tế bào ung thư nếu có để có kế hoạch điều trị tiếp tục sau phẫu thuật. Sau khi điều trị thầy thuốc vẫn cần theo dõi lâu dài cho bệnh nhân để có thể phát hiện sớm và xử lý kịp thời các vấn đề có thể phát sinh.
Đa u mô thừa đường mật là một bệnh lý bẩm sinh và thường là lành tính, ít khi gây ra triệu chứng rõ ràng hay các biến chứng nguy hiểm như ung thư đường mật. Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hiện nay đặc biệt là hệ thống máy cộng hưởng từ. Chúng ta cần phát hiện sớm căn bệnh này để có kế hoạch theo dõi lâu dài cho người bệnh tránh trường hợp bệnh có thể tiến triển nặng lên và có biến chứng ung thư hóa mặc dù rất hiếm.
Nếu bạn đang có triệu chứng nghi ngờ bệnh lý về gan mật hãy liên hệ ngay với MEDLATEC để nhận được sự tư vấn từ các bác sĩ tiêu hóa dày dặn kinh nghiệm của hệ thống. Số điện thoại đặt lịch tổng đài 24/7: 1900 56 56 56
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!