Bác sĩ: Bác sĩ. Võ Thị Lê
Chuyên khoa:
Năm kinh nghiệm:
U nấm phổi là một bệnh nhiễm trùng do nấm Aspergillus gây ra. U nấm Aspergilloma được hình thành khi nấm phát triển thành từng đám trong các hang ở nhu mô phổi. Các hang này thường được tạo ra bởi tình trạng bệnh lý trước đó. Các hang trong phổi có thể do các bệnh như: Bệnh lao, bệnh nấm coccidioides, bệnh xơ nang, bệnh Histoplasma, áp xe phổi, ung thư phổi, bệnh Sarcoidosis.
U nấm được chia thành hai loại đơn giản và phức tạp (theo Belcher và Plummer năm 1960).
Loài nấm gây bệnh phổ biến nhất ở người là Aspergillus fumigatus .
Triệu chứng phổ biến nhất trong bệnh lý này là ho ra máu và nếu ho ra máu ồ ạt có thể đe dọa tính mạng.
Phát hiện được sự có mặt của kháng thể IgG kháng Aspergillus trong huyết thanh là xét nghiệm rất có ý nghĩa để chẩn đoán bệnh. Trong bệnh cảnh có nghi ngờ u nấm trên lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, chỉ cần Aspergillus IgG dương tính cũng đủ để khẳng định chẩn đoán. Khi đã có xét nghiệm Aspergillus IgG dương tính, xét nghiệm nhuộm soi và nuôi cấy không cần thiết với mục đích khẳng định chẩn đoán nhưng cần thực hiện để làm kháng nấm đồ.
Chụp X- quang phổi hoặc cắt lớp vi tính phổi thường dùng để chẩn đoán xác định u nấm phổi.
Không khuyến khích phẫu thuật cắt bỏ u nấm Aspergillus thường quy nhưng nên dành cho những bệnh nhân bị ho ra máu nặng, tái phát và có thể chịu được phẫu thuật mở ngực.
Aspergillus là tác nhân chính gây u nấm phổi
Aspergillus fumigatus là một loại nấm hoại sinh đóng vai trò thiết yếu trong việc tái chế cacbon và nitơ trong môi trường. Ổ sinh thái tự nhiên của nó là đất, nơi nó tồn tại và phát triển trên các mảnh vụn hữu cơ. Mặc dù đây không phải là loại nấm phổ biến nhất trên thế giới, nhưng nó là một trong những loại nấm phổ biến nhất có bào tử lơ lửng trong không khí. Nó sinh bào tử rất nhiều, với mỗi đầu bào tử tạo ra hàng nghìn bào tử. Các bào tử lơ lửng được giải phóng vào khí quyển có đường kính đủ nhỏ (2 đến 3 μm) để đến được các phế nang phổi. Aspergillus fumigatus không có cơ chế phức tạp để giải phóng các bào tử lơ lửng vào không khí, sự phát tán chỉ dựa vào sự nhiễu loạn của môi trường và các luồng không khí mạnh. Khi các bào tử lơ lửng trong không khí, kích thước nhỏ của chúng khiến chúng nổi, có xu hướng giữ chúng lơ lửng trong không khí cả trong nhà và ngoài trời.
Trong điều kiện miễn dịch cơ thể bình thường, mặc dù chúng ta có thể liên tục hít phải bào tử nấm Aspergillus, nhưng cơ thể vẫn có thể loại bỏ những vi sinh vật này thông qua cơ chế miễn dịch.
Tuy nhiên, do số lượng bệnh nhân bị ức chế miễn dịch ngày càng tăng lên, tình hình đã thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Trong 10 năm qua, Aspergillus fumigatus đã trở thành tác nhân gây bệnh nấm trong không khí phổ biến nhất, gây ra các bệnh nhiễm trùng xâm lấn nghiêm trọng và thường gây tử vong ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch nghiêm trọng.
Ngoài ra A. niger, A. flavus và A. oxyzae cũng được báo cáo là gây bệnh cho người nhưng với tỷ lệ thấp hơn.
Con người có thể hít phải bào tử nấm Aspergillus fumigatus lơ lửng trong không khí
Sinh lý bệnh
Phổi của con người liên tục tiếp xúc với nấm trong không khí, một thành phần tương đối phổ biến trong hệ vi sinh vật môi trường bên ngoài của chúng ta. Trong số tất cả các sinh vật nấm, Aspergillus Fumigatus là loài xâm chiếm phổ biến. Bào tử Aspergillus chủ yếu xâm nhập vào đường hô hấp và ống tai ngoài. Những sinh vật dạng sợi này sinh sôi nhanh chóng và trở thành hậu quả ở những bệnh nhân bị bệnh phổi hoặc suy giảm miễn dịch toàn thân.
Aspergilloma có thể phát triển mạnh trong không gian hang rỗng kém thoát nước và vô mạch. Trong không gian hang rỗng, sinh vật bám vào thành bằng bào tử, nảy mầm và trong quá trình đó, gây ra phản ứng viêm. Sự xâm chiếm hoại sinh những hang phổi có từ trước, chủ yếu ở thùy trên dẫn đến việc hình thành u nấm phổi: nó là khối choán chỗ hoại tử, tròn, bao gồm u nấm, các tế bào viêm, fibrin, chất nhầy và các mảnh vỡ mô, không có xu hướng xâm lấn mô phổi xung quanh.
Ho ra máu là biểu hiện lâm sàng phổ biến nhất ở những bệnh nhân có triệu chứng. Thường do nguyên nhân u nấm phát triển gây phá hủy các mạch máu trong khoang phổi. Nếu một khoang phát triển nhanh có thể ăn mòn vào bề mặt màng phổi và động mạch liên sườn, gây ra tình trạng ho ra máu ồ ạt, thường gây tử vong và rất khó kiểm soát.
Có thể có sự chồng chéo trong các đặc điểm lâm sàng. Nhiều khối u nấm có thể phát triển, đặc biệt ở những bệnh nhân bị giãn phế quản, phế nang mạn tính. Thỉnh thoảng, u nấm Aspergilloma có thể phát triển trong cây phế quản (u nấm Aspergilloma nội phế quản) hoặc khoang màng phổi trong tràn mủ màng phổi mạn tính.
Ho ra máu là triệu chứng thường gặp của u nấm phổi và có thể gây nguy hiểm nếu ho ra máu nhiều
Tùy thuộc vào đặc điểm khối u như kích thước, vị trí u, mức độ tổn thương phổi và tình trạng miễn dịch mà người bệnh có thể không có triệu chứng hoặc có những biểu hiện như sau:
Nếu bệnh nhân không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, có thể xảy ra các biến chứng sau, bao gồm:
Trên những bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường, nếu có các bệnh lý trước đó gây ra bất thường về cấu trúc phổi, hình thành các hang rỗng bên trong nhu mô phổi. Nấm sẽ xâm nhập và phát triển trong những hang đó. Bao gồm:
Tình trạng suy nhược mãn tính:
Người bệnh suy giảm miễn dịch:
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng như ho dai dẳng, ho ra máu, gầy sút cân kéo dài không rõ nguyên nhân, kết hợp tiền sử bệnh lý trước đó, đặc biệt là lao phổi, kết hợp các xét nghiệm cận lâm sàng giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh u nấm phổi.
Chẩn đoán sơ bộ bệnh u nấm phổi được đưa ra dựa trên các đặc điểm chụp X quang đặc trưng ở những bệnh nhân có bệnh phổi tiềm ẩn đã biết. Đôi khi bệnh được phát hiện như một phát hiện chụp X-quang ngẫu nhiên ở những người không có triệu chứng. Chụp X - quang ngực thường là xét nghiệm chẩn đoán đầu tiên được chỉ định ở bệnh nhân có triệu chứng. Kết quả X - quang có thể cho thấy tình trạng khoang chiếm ưu thế ở thùy trên, dày lên, sẹo và đôi khi là khối mờ tròn bên trong khoang, vùng không khí xung quanh u nấm có hình lưỡi liềm, được gọi là dấu hiệu Monod. Tùy vào tư thế của bệnh nhân mà u nấm có thể thay đổi vị trí.
Hình ảnh u nấm phổi trên phim X - quang
Sau khi xác định được bằng chụp X-quang, các tiêu chí bổ sung được sử dụng để giúp thiết lập chẩn đoán bao gồm sự hiện diện của vi khuẩn Aspergillus trong các mẫu nuôi cấy đường hô hấp dưới thu được bằng cách rửa phế nang (BAL), xét nghiệm galactomannan huyết thanh hoặc BAL dương tính và kháng thể IgG đặc hiệu với Aspergillus trong huyết thanh.
Chụp cắt lớp vi tính cung cấp nhiều hình ảnh hơn và có một số đặc điểm đặc trưng:
Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính của một khối u nấm Aspergilloma đơn giản ở phổi phải
Việc phát hiện ra các vi sinh vật Aspergillus trong đờm không phải là chẩn đoán vì nấm này có ở khắp mọi nơi và có thể xâm chiếm đường thở mà không gây bệnh. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân có các phát hiện đặc trưng trên phim chụp X-quang, các vi sinh vật từ BAL hỗ trợ thêm cho chẩn đoán. Ngược lại, việc không có vi sinh vật trong môi trường nuôi cấy không loại trừ chẩn đoán.
Xét nghiệm chống lại kháng nguyên galactomannan, một thành phần polysaccharide của thành tế bào nấm, có độ đặc hiệu cao. Thông thường, độ nhạy của kháng nguyên galactomannan cao hơn trong dịch BAL so với huyết thanh. Kết quả dương tính giả có thể xảy ra ở những bệnh nhân được kê đơn Piperacillin-Tazobactam. Kết quả âm tính giả có thể xảy ra khi điều trị bằng steroid liều cao.
Kháng thể IgG chống lại loài Aspergillus được chẩn đoán bằng xét nghiệm precipitin có kết tủa dương tính ở hơn 90% các trường hợp. Nồng độ IgG của Aspergillus thường cao ở những người mắc bệnh nấm Aspergillus phổi mạn tính (CPA) và nồng độ giảm dần (hiếm khi không phát hiện được) khi điều trị.
Chẩn đoán phân biệt
Mục tiêu là làm giảm các triệu chứng, ngăn ngừa và giảm thiểu các đợt ho ra máu và ngăn ngừa tiến triển thành xơ phổi.
Khoảng 10% bệnh nhân Aspergilloma đơn giản có thể tự thoái triển, trong khi một số lượng đáng kể có thể gây ho ra máu ồ ạt. Một đợt ho ra máu nhẹ cũng có thể dự đoán tình trạng ho ra máu ồ ạt tiếp theo ở 30% bệnh nhân.
Phẫu thuật cắt bỏ u nấm phổi từ lâu được coi là tiêu chuẩn vàng, có thể liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao, và liệu pháp kháng nấm có giá trị hạn chế. Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ khuyến cáo nên theo dõi liên tục, bảo tồn ở những bệnh nhân không có triệu chứng với một khối u nấm Aspergilloma ổn định. Nếu các triệu chứng phát triển, bao gồm ho ra máu, nên phẫu thuật cắt bỏ. Nên cân nhắc liệu pháp chống nấm quanh và sau phẫu thuật nếu có nguy cơ tràn dịch sau phẫu thuật.
Ở những bệnh nhân không phẫu thuật bị ho ra máu tái phát và không đáp ứng với liệu pháp chống nấm toàn thân, cần cân nhắc đến việc đưa thuốc chống nấm vào khoang. Tùy thuộc vào kích thước và vị trí khoang, tình trạng phổi của bệnh nhân và kinh nghiệm của nhóm y tế, có thể thực hiện việc đưa thuốc chống nấm vào khoang thông qua ống thông nội phế quản hoặc qua da.
Ở những bệnh nhân bị ho ra máu nhẹ đến trung bình, có thể thử dùng axit Tranexamic đường uống để ổn định sự hình thành cục máu đông. Liệu pháp chống nấm có thể ngăn ngừa tái phát ho ra máu.
Trong trường hợp ho ra máu ồ ạt, nút động mạch phế quản bằng X quang can thiệp đã được chứng minh là thành công trong 50% đến 90% các trường hợp, tuy nhiên, tỷ lệ tái phát ho ra máu cao. Nên bắt đầu liệu pháp chống nấm sau đó. Cũng có thể cần phải nút động mạch vú trong, động mạch dưới đòn để kiểm soát ho ra máu. Nên tránh thuyên tắc động mạch gần nguồn gốc của động mạch tủy sống và động mạch đốt sống do khả năng gây nhồi máu tủy sống và liệt.
Các phương pháp phẫu thuật khác nhau bao gồm cắt thùy phổi, cắt phổi, cắt phân thùy phổi, cắt hang phổi và cắt màng phổi.
Các biến chứng phẫu thuật bao gồm rò phế quản màng phổi, viêm phổi, tràn mủ màng phổi, suy hô hấp, xuất huyết và tử vong.
Điều trị thuốc kháng nấm không cho thấy hiệu quả do đặc tính vô mạch của u nấm Aspergillus. Tuy nhiên trong những trường hợp không thể phẫu thuật để loại bỏ u nấm thì đây cũng là một biện pháp điều trị được các nhà lâm sàng lựa chọn: Thuốc kháng nấm thường dùng là Itraconazole hoặc Voriconazole.
U nấm phổi là một bệnh lý thường gặp ở nước ta do tỷ lệ lao phổi và các bệnh lý về hô hấp còn cao trong cộng đồng. Nếu bạn có ho ra máu hoặc có bất kỳ dấu hiệu nghi ngờ nào liên quan đến u nấm phổi hãy đến gặp ngay bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Hệ thống Y tế MEDLATEC với các chuyên gia đầu ngành về hô hấp và hệ thống máy chụp cắt lớp vi tính hiện đại cũng như các xét nghiệm tiên tiến sẽ giúp bạn chẩn đoán sớm căn bệnh này để hạn chế tối đa các biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.
Số điện thoại đặt lịch tư vấn và khám sức khỏe tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC: 1900 56 56 56 hoặc bạn cũng có thể đặt lịch mọi lúc mọi nơi thông qua ứng dụng My Medlatec.
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!