Bác sĩ: Bác sĩ Lê Thị Lan Anh
Chuyên khoa: Da liễu
Năm kinh nghiệm: 04 năm
Viêm da dầu là một bệnh lý khá phổ biến, rất nhiều người phải đi khám bác sĩ vì tình trạng này. Đây là một bệnh viêm mạn tính, ổn định từng đợt, đặc trưng bởi các tình trạng da đỏ trên nền có vảy phân bố chủ yếu ở những vùng da nhiều tuyến bã như da đầu, vùng mặt và nửa trên thân mình.
Bệnh thường khởi phát tại các thời điểm tuyến bã hoạt động mạnh như những tháng đầu đời sau sinh ở trẻ và sau giai đoạn dậy thì của thanh thiếu niên.
Như vậy, bệnh có thể gặp ở mọi chủng tộc, cả trẻ em và người lớn, cả nam và nữ, tuy nhiên nam gặp nhiều hơn.
- Trẻ em độ tuổi từ 3 tuần - 12 tháng
+ Trẻ < 1 tháng tuổi khoảng 10% có viêm da dầu
+ Trẻ 3 tháng tuổi: 70% bị viêm da dầu
+ Bệnh tự thoái lui sau 1 tuổi.
Trẻ 3 tháng tuổi: 70% bị viêm da dầu
- Ở người lớn:
+ Khoảng 3% có tình trạng viêm da dầu
+ Đỉnh bệnh vào khoảng thời gian 30-40 tuổi
Tình trạng viêm da dầu tăng cao ở đối tượng nhiễm HIV
- Khoảng 35% những đối tượng này có tình trạng Viêm da dầu
- Thậm chí lên đến 85%, ở đối tượng có CD4 < 400TB/ml và bệnh ở giai đoạn AIDS.
- Tình trạng viêm da dầu thường nặng, lan tỏa và không đáp ứng điều trị.
Cho đến ngày nay thì nguyên nhân gây bệnh Viêm da dầu vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Có nhiều quan điểm được đưa ra, đa số cho rằng bệnh có liên quan đến sự hoạt động quá mức của tuyến bã, nấm Malassezia, sự thay đổi miễn dịch và các yếu tố thuận lợi tạo nên sự nhạy cảm của người bệnh với viêm da dầu.
Vai trò của tuyến bã
Người ta thấy rằng, các vị trí thường bị viêm da dầu tương ứng với vùng da tập trung nhiều tuyến bã như da đầu, vùng mặt, ngực và lưng và bệnh lại khởi phát chủ yếu vào thời điểm các tuyến bã này hoạt động mạnh mẽ: những tháng đầu đời và ở độ tuổi sau dậy thì.
Điều này phần nào khẳng định quan điểm về vai trò của tuyến bã trong việc gây nên tình trạng viêm da dầu.
Tuy nhiên, không phải ai bị viêm da dầu cũng có tăng tiết bã nhờn và không phải ai có tình trạng tăng tiết bã nhờn cũng bị viêm da dầu. Nồng độ chất bã cũng không liên quan đến mức độ nặng của bệnh.
Vai trò của nấm Malassezia
Đây loài nấm ưa mỡ có trong vi hệ của da, được cho là có liên quan đến sự xuất hiện tình trạng viêm da dầu.
Nấm Malassezia được cho là có liên quan đến sự xuất hiện tình trạng viêm da dầu
Người ta thấy rằng: ở những bệnh nhân viêm da dầu thường có số lượng Malassezia cao hơn so với nhóm chứng. Hơn nữa, viêm da dầu lại đáp ứng khá tốt khi điều trị với các thuốc kháng nấm, điều này lại càng khẳng định có sự liên quan giữa viêm da dầu và loại nấm này.
Tuy nhiên, còn 1 số điểm chưa hợp lý, có những người có nồng độ Malassezia bình thường mà vẫn bị viêm da dầu và số lượng sợi nấm trên da cũng không hoàn toàn tương ứng với mức độ nặng của bệnh.
Vai trò của hệ miễn dịch
Có nghiên cứu cho rằng: sự đáp ứng miễn dịch với Malassezia và các sản phẩm chuyển hóa của nó: acid béo, gốc oxy tự do, men lipase đã dẫn đến tình trạng viêm da dầu hoặc cũng có thể viêm da dầu là kết quả của phản ứng kích ứng với các sản phẩm chuyển hóa đó.
Các yếu tố thuận lợi
- Bệnh lý nền: các bệnh lý về thần kinh, chuyển hóa, suy giảm miễn dịch...
- Yếu tố vật lý:
+ Chấn thương, vết thương vùng mặt: có thể làm xuất hiện bệnh.
+ Tia tử ngoại: điều trị PUVA ở vùng mặt có thể gây viêm da dầu.
+ Nhiệt độ và độ ẩm: mức độ viêm da dầu thay đổi rõ rệt theo mùa, bệnh có thể bùng phát vào mùa đông, đầu xuân, cải thiện hơn về mùa hè.
- Thuốc: griseofulvin, cimetidin, lithium,… có thể gây bùng bệnh.
- Yếu tố di truyền: đột biến gen ZNF750.
Viêm da dầu được chia thành Viêm da dầu ở 2 nhóm đối tượng:
Viêm da dầu ở trẻ nhỏ
- Thường gặp ở giai đoạn đầu sau sinh và có tiên lượng khá tốt. Phần lớn, bệnh sẽ tự khỏi sau vài tuần - vài tháng, rất ít khi kéo dài đến năm 1 tuổi.
- Hình thái, vị trí tổn thương
+ Vùng da đầu: Gặp nhiều ở vùng trán và đỉnh đầu, thương tổn là các vảy da, vảy mỡ trên nền da đỏ xen kẽ các vết nứt, thường không có rụng tóc đi kèm, tổn thương có thể khu trú hoặc lan rộng toàn bộ da đầu.
+ Vị trí thường gặp khác:
Vùng chữ T (Trán, rãnh mũi má, cung mày 2 bên), vùng mí mắt, rãnh sau tai, ống tai ngoài, ngực, lưng
Các mảng da đỏ trên nền có vảy mỡ, bóng, dính.
Thương tổn cũng có thể lan rộng toàn bộ thân mình, các chi.
Vùng kẽ: nách, bẹn 2 bên, quanh rốn, quanh ống hậu môn, các mảng đỏ ẩm ướt trên nền có ít vảy tập trung thành đám.
- Cơ năng:
+ Ít gây khó chịu, có thể ngứa rất ít
+ Trẻ vẫn ăn và ngủ tốt.
- Leiner’s disease:
+ Là một thể nặng lan tỏa của viêm da dầu ở trẻ em, dẫn đến tình trạng đỏ da bong vảy toàn thân
Leiner’s disease là một thể nặng lan tỏa của viêm da dầu ở trẻ em, dẫn đến tình trạng đỏ da bong vảy toàn thân
+ Ngoài ra: có sốt, tiêu chảy, thiếu máu, nôn và sút cân.
+ Không được điều trị, người bệnh có thể tử vong.
+ Thường có tính chất gia đình.
Viêm da dầu ở người lớn
Đây là bệnh mạn tính, thường khởi phát sau tuổi dậy thì và có thể kéo dài suốt đời, ổn định và tái phát theo từng đợt.
- Hình thái, vị trí thương tổn
+ Ở da đầu
Các vảy da màu trắng, mỏng hoặc vảy mỡ màu vàng trên nền da viêm đỏ.
Thường gặp: vùng trán, thái dương và vùng đỉnh
Thương tổn có thể khu trú hoặc lan tỏa toàn bộ vùng da đầu.
+ Ở mặt
Dát đỏ trên nền có các vảy da, vảy mỡ màu vàng dính, ranh giới rõ. Đôi khi có kèm vết nứt( hay sau ở vị trí rãnh sau tai, vành tai)
Thương tổn tập trung ở vùng chữ T (má, lông mày, rãnh mũi má), rãnh sau tai, vành tai, ống tai ngoài, vùng tiết nhiều dầu: ngực, lưng.
Các tổn thương sắp xếp đa dạng: thành hình đồng xu, hình đa cung, hình cánh hoa, hình vòng.
+ Vùng nếp gấp:
Hay gặp: nách, nếp lằn vú 2 bên, vùng quanh rốn
Các mảng trợt ướt, viêm đỏ trên nền có thể có hoặc không có vảy da.
- Cơ năng:
+ Có thể có hoặc không ngứa
+ Có trường hợp ngứa tăng khi nóng, ra mồ hôi
+ Vùng da đầu thường ngứa nhiều.
- Ở bệnh nhân HIV:
+ Thương tổn thường lan rộng
+ Có thể ở vị trí ít gặp: tay, chân.
Viêm da dầu cũng ít khi để lại biến chứng, tuy nhiên, trong trường hợp Viêm da dầu lan tỏa, không đáp ứng điều trị có thể gây tình trạng đỏ da bong vảy nặng nề, viêm nặng dễ dẫn đến tử vong.
Vậy viêm da dầu liệu có lây không?
Câu trả lời là không. Viêm da dầu có tính chất gia đình và không phải bệnh lý truyền nhiễm, không thể lây lan giữa người với người qua giao tiếp, tiếp xúc đơn thuần.
- Người nhiễm HIV/AIDS: Viêm da dầu gặp khá nhiều ở đối tượng này. Thương tổn thường lan tỏa và không đáp ứng điều trị thông thường.
- Người có bệnh lý thần kinh: Parkinson, Alzheimer, rối loạn tâm thần.
- Những người nghiện rượu.
- Những người mắc bệnh nội tiết, béo phì: tỷ lệ viêm da dầu cũng tăng lên.
- Tình trạng stress, lo lắng, căng thẳng kéo dài cũng có thể gây viêm da dầu.
- Trong gia đình có ông bà, bố mẹ... bị viêm da dầu.
- Kiểm soát tốt các bệnh lý nền có sẵn của bệnh nhân: HIV, bệnh lý về thần kinh, rối loạn nội tiết...
- Hạn chế những yếu tố nguy cơ là điều kiện thuận lợi cho sự khởi phát bệnh:
+ Hạn chế sử dụng các chất kích thích: rượu, bia, thuốc lá, cà phê…
Hạn chế sử dụng các chất kích thích: rượu, bia, thuốc lá, cà phê…
+ Tạo lối sống sinh hoạt hợp lý, điều độ: ngủ đủ giấc, giữ tinh thần luôn thoải mái, không ăn các thực phẩm nhiều dầu mỡ, đồ cay nóng, đồ quá ngọt
+ Dùng các sản phẩm chăm sóc, làm sạch da phù hợp, đặc biệt là những vùng da có tuyến bã hoạt động mạnh.
Sẽ gồm chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán xác định
- Căn cứ chủ yếu biểu hiện lâm sàng, vị trí thương tổ
- Trường hợp không rõ làm thêm mô bệnh học để chẩn đoán xác định.
Mô bệnh học khác nhau tùy giai đoạn:
+ Cấp tính: hiện tượng phù gian bào nhẹ, các tế bào sừng còn nhân khu trú, thâm nhiễm bạch cầu lympho.
+ Bán cấp: tế bào thượng bì tăng sinh, có tế bào nấm men ở lớp sừng.
+ Mạn tính: tế bào thượng bì tăng sinh nhiều hơn và giảm hiện tượng phù gian bào, giãn mạch máu ở trung bì nông
- 1 số xét nghiệm có ý nghĩa trong gợi ý chẩn đoán, tiên lượng bệnh:
+ Nuôi cấy nấm: số lượng nấm Malassezia tăng cao.
+ Xét nghiệm HIV.
Chẩn đoán phân biệt
- Viêm da dầu ở trẻ em
+ Viêm da cơ địa: đôi khi gây nhầm lẫn với thương tổn dát đỏ vùng mặt. Tuy nhiên, bệnh sẽ không đáp ứng với thuốc nấm tại chỗ, cơ năng: ngứa nhiều, trẻ dụi dặm, khó chịu, xét nghiệm: không có nấm
+ Viêm da tã lót, có thể nhầm lẫn với viêm da dầu vùng bẹn, hậu môn do vị trí đeo bỉm, quấn tã. Tuy nhiên khi bỏ bỉm, bỏ tã, giữ khô thoáng và dùng các thuốc giảm viêm, kháng sinh, dưỡng ẩm tại chỗ thì bệnh cải thiện
+ Vảy nến: cũng có thể gây nhầm lẫn với những thương tổn viêm da dầu lan tỏa vùng mặt, ngực, lưng. Tuy nhiên, vảy nến: có thể có thêm tổn thương móng, khớp, cạo vảy theo phương pháp Brocq (+)
+ Nấm da đầu cũng có thể gây tình trạng vảy da trên nền da đỏ. Tuy nhiên: thường kèm rụng tóc do nấm
Xét nghiệm nấm: nhiều sợi nấm (viêm da dầu thường là nấm men, không có sợi)
Soi nấm dưới kính hiển vi
- Viêm da dầu ở người lớn, cũng tương tự 1 số bệnh cần phân biệt ở Viêm da dầu trẻ em như: vảy nến, nấm da đầu, và 1 số bệnh khác nữa:
+ Lang ben: cũng do nấm men gây nên, tuy nhiên thương tổn có xu hướng lan rộng ra mọi vị trí trên da và lây cho người khác khi dùng chung vật dụng: khăn mặt, khăn tắm, khẩu trang, quần áo...
+ Viêm da do Demodex: cũng gây hiện tượng viêm đỏ. tuy nhiên thương tổn thường phân bố vùng mặt. Xét nghiệm demodex(+) ( trên 5 con/ vi trường)
+ Lupus ban đỏ hệ thống: thường kèm rụng tóc, triệu chứng toàn thân: mệt mỏi, đau khớp hoặc có biểu hiện ở các cơ quan khác. Kháng thể kháng nhân(+)
+ Lupus ban đỏ kinh hình đĩa
+ Viêm da tiếp xúc dị ứng: khai thác tác nhân nghi ngờ gây dị ứng. Bệnh cải thiện nhanh sau khi ngừng tiếp xúc với tác nhân và điều trị thuốc chống viêm, chống dị ứng. xét nghiệm nấm (-)
+ Vảy phấn hồng gilbert: có thể gây nhầm lẫn với thương tổn vùng lưng, ngực. Tuy nhiên thương tổn thường có tính chất đối xứng, đa dạng hình thái, có thể có các thương tổn “con” vây xung quang thương tổn “mẹ”.Có thể có tiền sử dùng thuốc, nhiễm virus trước đó. Bệnh có thể tự thoái lui sau 3-6 tháng mà không cần điều trị.
+ Giang mai: hồng ban trong giang mai đôi khi gây nhầm lẫn với dát đỏ trong viêm da dầu. Tuy nhiên, ở bệnh nhân Giang mai có tiền sử quan hệ tình dục không an toàn. Xét nghiệm giang mai dương tính, Pemphigus da mỡ.
Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào từng đối tượng mà khác nhau về độ tuổi, vị trí của tổn thương. Ngoài ra, cần xác định các yếu tố nguy cơ gây bùng phát hoặc làm nặng bệnh và loại bỏ chúng.
Viêm da dầu ở trẻ em
- Viêm da dầu ở đầu:
+ Ưu tiên kem dưỡng ẩm, dầu gội thông thường làm mềm và bong tổn thương; khi không đáp ứng, chuyển bước tiếp theo
+ Dùng corticoid bôi loại yếu hoặc dầu gội trị nấm, kem bôi nấm.
Dùng corticoid bôi loại yếu hoặc dầu gội trị nấm, kem bôi nấm
Corticoid: clobetasol butyrate 0,05%, hydrocortison 1%... bôi 1 lần/ngày x 7 ngày
Dầu gội hoặc kem ketoconazol 2%: 2 lần/tuần x 2 tuần
- Viêm da dầu ở mặt, thân mình:
+ Corticoid bôi loại yếu: 1 lần/ngày x 5-7 ngày
+ Ketoconazol 2% 1 lần/ngày x 1-2 tuần.
- Viêm da dầu ở vùng kẽ:
+ Ketoconazol 2 % hoặc thuốc nhóm azole khác: 1 lần/ngày x 1-2 tuần.
+ Ngoài ra, có thể dùng kẽm oxid hoặc các chế phẩm chiết xuất từ than đá.
+ Nếu bệnh không cải thiện sau 1 tuần dùng corticoid hoặc 2 tuần dùng thuốc chống nấm thì cần xác định lại đó có phải Viêm da dầu hay không. Nếu vẫn nghĩ đến chẩn đoán này thì điều trị lại theo từng đợt.
Viêm da dầu ở người lớn
Điều trị Viêm da dầu ở người lớn cần chia làm 2 giai đoạn: Tấn công: Cải thiện triệu chứng và duy trì: Dự phòng tái phát.
- Viêm da dầu ở đầu
+ Khởi đầu: ketoconazol 2%, selenium sulphid 2,5%, ciclopirox 1% 2-3 lần/tuần trong vài tuần hoặc cho đến khi sạch tổn thương.
Corticoid loại mạnh mỗi ngày 1 lần x 2-4 tuần với trường hợp có ngứa hoặc viêm tại thương tổn.
+ Duy trì: dầu gội ketoconazol 2% hoặc ciclopirox 1% 1 lần/ tuần.
- Viêm da dầu ở mặt:
+ Khởi đầu: corticoid bôi loại yếu, thuốc bôi chống nấm đơn độc hoặc chế phẩm kết hợp cả 2 loại này: 1-2 lần/ngày đến khi sạch tổn thương.
+ Duy trì: thuốc bôi chống nấm 1 lần/tuần.
+ Thương tổn ở vùng râu: dùng dầu gội chống nấm rửa mặt hằng ngày đến khi sạch tổn thương, duy trì: 1 lần/tuần, kéo dài
+ Thuốc ức chế calcineurin: tacrolimus hoặc pimetrolimus có thể dùng thay thế corticoid, hiệu quả và an toàn.
- Viêm da dầu ở thân mình và vùng kẽ
+ Corticoid loại trung bình, thuốc bôi chống nấm dùng đơn độc hoặc phối hợp cả hai loại này: 1-2 lần/ngày cho đến khi sạch tổn thương.
+ Duy trì: thuốc bôi chống nấm 1 lần/tuần, kéo dài
- Viêm da dầu không đáp ứng điều trị hoặc các bệnh nhân có tổn thương lan tỏa: cần phối hợp các thuốc uống đường toàn thân:
+ Ưu tiên: Itraconazol 200mg/ ngày x 7 ngày, sau đó duy trì: 200mg/ngày x 2 ngày/tháng x 3 tháng.
+ Có thể thay bằng: terbinafin, fluconazol.
+ Một số dùng: vitamin A acid liều 2,5-5mg/ngày x 3-5 tháng.
+ Ánh sáng trị liệu cũng có tác dụng trong điều trị viêm da dầu.
1. Bệnh học Da Liễu tập 2 chủ biên PGS.TS.Nguyễn Văn Thường
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!