Bác sĩ: Ths.BSNT Trần Hiền
Chuyên khoa:
Năm kinh nghiệm:
Bạch biến (Vitiligo) là một rối loạn tự miễn mạn tính gây ra các mảng da giảm hoặc mất sắc tố (da nhạt màu hơn các vùng khác). Nguyên nhân gây ra bạch biến chưa được biết rõ, nhưng có thể liên quan đến sự thay đổi hệ thống miễn dịch, yếu tố di truyền, stress hoặc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Các lựa chọn điều trị bao gồm thuốc bôi tại chỗ, liệu pháp ánh sáng, phẫu thuật và mỹ phẩm. Tình trạng này có thể xuất hiện trên mọi loại da với màu hồng nhạt và có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trên cơ thể với nhiều kích cỡ khác nhau. Các vết bạch biến cũng có thể “thay đổi” khi các vết mất và lấy lại sắc tố; chúng sẽ ở tương đối cùng một khu vực nhưng có thể di chuyển theo thời gian và một số mảng lớn có thể di chuyển qua nhiều năm nhưng không bao giờ biến mất qua đêm.
Dịch tễ học
Tỷ lệ mắc bệnh bạch biến (vitiligo) khá đồng đều giữa các nhóm dân tộc: khoảng 0,38% ở người da trắng, 0,34% ở người Caribe, 0,46% ở người Ấn Độ, mặc dù có thể tỉ lệ mắc bệnh này thấp hơn một chút ở người Hán, với tỉ lệ 0,093%. Bạch biến dường như gặp ở cả nam và nữ với một tỷ lệ tương đương, mặc dù phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn trong số những người thăm khám y tế. Bệnh bạch biến có thể phát triển ở bất kỳ độ tuổi nào, với độ tuổi khởi phát trung bình là khoảng 24 tuổi. Nhóm bạch biến phổ biến nhất là bạch biến toàn thể (generalized vitiligo - GV), đây là một bệnh tự miễn, liên quan đến các bệnh tự miễn khác ở khoảng 20% - 30% bệnh nhân, thường gặp nhất là bệnh lý tuyến giáp tự miễn (viêm tuyến giáp Hashimoto hoặc bệnh Graves), viêm khớp dạng thấp, vẩy nến,...
Người mắc bạch biến thể thông thường
Bạch biến là một rối loạn đa gen - đa nhân tố, với sinh lý bệnh phức tạp chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Trong số các giả thuyết về sinh lý bệnh của bệnh, giả thuyết được chấp nhận nhiều nhất là các yếu tố di truyền và không di truyền tương tác với nhau để ảnh hưởng đến chức năng và sự tồn tại của tế bào sắc tố (tế bào sắc tố), cuối cùng dẫn đến sự phá hủy tế bào sắc tố do cơ chế tự miễn. Các giả thuyết khác về nguyên nhân bệnh bao gồm khiếm khuyết trong quá trình bám dính của tế bào sắc tố, tổn thương thần kinh, tổn thương sinh hóa, tự độc tế bào, và các nguyên nhân khác.
Tính di truyền của bạch biến
Các nghiên cứu quy mô lớn đã chỉ ra rằng phần lớn các trường hợp bạch biến xảy ra một cách ngẫu nhiên, mặc dù khoảng 15%–20% bệnh nhân có một hoặc nhiều người thân trực hệ cũng bị mắc bệnh. Đa số các trùm ca bệnh gia đình có mô hình di truyền không theo quy luật Mendel, mà là mô hình di truyền đa gen đa nhân tố. Tỉ lệ đồng mắc ở cặp song sinh cùng trứng là 23%, cho thấy cả yếu tố di truyền và không di truyền (có thể là yếu tố môi trường) đóng vai trò quan trọng trong sinh lý bệnh của bệnh. Hầu hết các nghiên cứu về di truyền học của bạch biến đều tập trung vào nhóm bạch biến toàn thể. Một nghiên cứu kết hợp toàn bộ bộ gen gần đây với quy mô rất lớn của các bệnh nhân và gia đình bạch biến toàn thể người da trắng Châu Âu đã xác định ít nhất mười locus khác nhau đóng góp vào nguy cơ mắc bạch biến toàn thể. Bảy trong số các locus dễ bị mắc bạch biến toàn thể cũng đã được chứng minh có mối liên quan mật thiết với các bệnh tự miễn khác gồm: HLA lớp I, HLA lớp II, PTPN22, LPP, IL2RA, UBASH3A và C1QTNF6, hai locus mã hóa các protein tham gia vào chức năng miễn dịch RERE và GZMB, và một locus khác, TYR, mã hóa cho tyrosinase, một enzyme chủ chốt trong quá trình tổng hợp melanin và là tự kháng nguyên chính của bạch biến lan toả.
Bạch biến phân đoạn dường như có sự khác biệt về tính di truyền so với bạch biến lan toả. Nhóm bệnh này thường xảy ra một cách ngẫu nhiên và có phân bố đơn lẻ đã dẫn đến giả thuyết cho rằng nó có thể là kết quả của hiện tượng khảm của các đột biến mới phát sinh, có thể là trong các gen quan trọng đối với sự phát triển hoặc tồn tại của các tế bào sắc tố, mặc dù giả thuyết này vẫn chưa được xác nhận.
Giả thuyết về bệnh tự miễn
Có những bằng chứng thuyết phục ủng hộ cơ chế tự miễn của bệnh bạch biến lan toả. Bệnh bạch biến lan toả có liên quan về dịch tễ học với một số bệnh tự miễn khác, cả ở bệnh nhân và người thân gần của họ, cho thấy một khuynh hướng tự miễn dịch. Miễn dịch huyết thanh lần đầu tiên được chỉ ra qua việc phát hiện các tự kháng thể kháng tế bào sắc tố trong một số trường hợp, các tự kháng thể này nhắm vào nhiều kháng nguyên tế bào sắc tố, bao gồm tyrosinase, protein liên quan tyrosinase-1, dopachrome tautomerase và một số kháng nguyên khác. Hiện tại, những tự kháng thể này được cho là phản ánh các đáp ứng miễn dịch thứ phát đối với sự phá hủy tế bào sắc tố hơn là nguyên nhân chính gây ra bạch biến lan toả. Một vai trò khác có liên quan tới sự xâm nhập viêm đôi khi thấy ở các vùng rìa của tổn thương bạch biến lan toả đang hoạt động, chủ yếu là các tế bào lympho T gây độc tế bào. Có giả thuyết rằng các tế bào T này đang tích cực tiêu diệt tế bào sắc tố qua con đường granzyme/perforin.
Một cơ chế miễn dịch khác cũng đã được đề xuất để giải thích cho hiện tượng mất sắc tố do hóa chất (chemical leukoderma). Bệnh bạch biến do nghề nghiệp có thể xảy ra ở những người tiếp xúc với một lượng lớn các hợp chất phenolic, gồm 4-tertiary butyl phenol (4-TBP) và các hợp chất phenolic khác có thể có trong dung dịch tẩy rửa. Hiện nay, chưa rõ những tác nhân này có độc trực tiếp với tế bào sắc tố hay không, hoặc có thể một số cá nhân có tính nhạy cảm dễ bị tổn thương tế bào sắc tố từ các dẫn xuất phenolic, mất khả năng dung nạp và cơ chế tự miễn dịch.
Cơ chế miễn dịch cũng được cho là nguyên nhân trong hiện tượng mất sắc tố giống bạch biến, có thể xuất hiện trong quá trình điều trị bằng liệu pháp miễn dịch IL-2 đối với u hắc tố da, thông qua tác dụng kích thích của IL-2 lên sự tăng trưởng và kích hoạt tế bào T. Một số kháng nguyên liên quan đến u hắc tố (ví dụ, MART-1, gp100 và tyrosinase) cũng biểu hiện trên tế bào sắc tố bình thường, và phản ứng chéo của một số đáp ứng miễn dịch chống u hắc tố cũng ảnh hưởng lên các tế bào sắc tố bình thường.
Giả thuyết về Stress oxy hóa
Nhiều nghiên cứu giải trình tự toàn bộ exome đã chứng minh rằng bệnh bạch biến liên quan đến các đa hình trong các gen liên quan đến phản ứng với stress oxy hóa như CAT, SOD1, SOD2, SOD3, NFE2L2, HMOX1, GST-M1 hoặc GST-T1, hỗ trợ mối liên hệ giữa mức độ tăng cao của các loài oxy phản ứng trong tế bào sắc tố với sự cảm ứng của phản ứng tự miễn.
Do đó, các bệnh biểu hiện với chức năng ty thể bị thay đổi như MELAS, hội chứng Vogt-Koyanagi-Harada, hội chứng Kabuki liên quan đến nguy cơ mắc bệnh bạch biến tăng lên.
Theo các quan sát này, các thay đổi di truyền trong DNA ty thể (mtDNA) của tế bào sắc tố liên quan đến chức năng ty thể bị thay đổi dẫn đến sự giải phóng mtDNA có thể được phát hiện trong da của bệnh nhân bạch biến. mtDNA này có thể được cảm nhận bởi con đường cGAS-STING dẫn đến sản xuất cytokine tiền viêm và chemokine thúc đẩy sự tuyển mộ các tế bào T CD8+ gây độc tế bào. Việc sử dụng chất chống oxy hóa ty thể, chất ức chế NRF2 và chất ức chế TBK1 đang nổi lên như những lựa chọn điều trị tiềm năng để ngăn chặn chuỗi sự kiện này.
Biểu hiện lâm sàng chính của bệnh bạch biến là sự xuất hiện của các đốm trắng sữa, với sự mất sắc tố khá đồng đều và viền rõ ràng.
Dựa trên sự phân bố đa hình, sự lan rộng và số lượng các vết giảm sắc tố, bạch biến được phân loại thành: lan toả (thể thông thường, tại các cực, thể hỗn hợp), toàn thể, và khu trú (từng điểm, phân đoạn, và niêm mạc). Bạch biến cũng được phân loại thành các loại phân đoạn và không phân đoạn, dựa trên các đặc điểm lâm sàng đặc trưng và lịch sử tự nhiên. Theo phân loại này, các trường hợp không phân đoạn (non-SV) bao gồm tất cả các trường hợp không được phân loại là phân đoạn, bao gồm các loại khu trú, lan toả và tại các cực.
Hình 2. Hình ảnh bạch biến thể tại các cực
Bạch biến từng điểm
Bạch biến thường có xu hướng xuất hiện ở những vùng da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, các nếp gấp trên cơ thể và quanh các lỗ hở trên mặt, mặc dù bất kỳ phần nào của cơ thể cũng có thể bị ảnh hưởng. Các yếu tố kích thích khác nhau đã được đề xuất, bao gồm chấn thương vật lý lên da, cháy nắng, căng thẳng tâm lý, viêm nhiễm, mang thai, thuốc tránh thai, thiếu vitamin, và nhiều yếu tố khác. Tuy nhiên, cho đến nay, không có yếu tố môi trường cụ thể nào được chứng minh là nguyên nhân chính.
Bạch biến có thể xuất hiện ở các vùng da bị chấn thương: Hiện tượng Koebner - một hiện tượng trong đó các tổn thương da mới xuất hiện ở những vùng da bị chấn thương hoặc kích thích cơ học, như trầy xước, cạo, đâm thủng, hoặc bị nặn. Những tổn thương này thường xuất hiện ở những người có các bệnh da mãn tính, như bệnh vảy nến, bệnh chàm (eczema),…
Chẩn đoán bạch biến chủ yếu được xác định dựa trên các yếu tố lâm sàng, bao gồm sự phân bố và phạm vi của các tổn thương, và tiền sử bệnh sử của bệnh nhân. Các xét nghiệm được chỉ định chủ yếu nhằm mục đích chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán các bệnh lý kèm theo.
Xét nghiệm
Vì có sự liên quan giữa bạch biến và các bệnh tự miễn khác, một số xét nghiệm sàng lọc nhóm bệnh lý nên được chỉ định, bao gồm nồng độ T4, TSH, kháng thể kháng nhân, và xét nghiệm tổng phân tích máu ngoại vi. Các bác sĩ cũng nên cân nhắc việc xét nghiệm kháng thể kháng thyroglobulin và kháng thể kháng peroxidase tuyến giáp, đặc biệt khi bệnh nhân có các dấu hiệu và triệu chứng gợi ý về bệnh lý tuyến giáp.
Mô bệnh học
Sinh thiết da hiếm khi cần thiết để xác nhận chẩn đoán bạch biến. Thông thường, mô học cho thấy lớp biểu bì thiếu vắng tế bào sắc tố ở các vùng tổn thương, và đôi khi có sự xâm nhập của các tế bào lympho ở lớp bì, quanh mạch máu và quanh nang lông ở các rìa của các tổn thương bạch biến sớm và các tổn thương đang hoạt động, điều này phù hợp với quá trình miễn dịch tế bào tiêu diệt tế bào sắc tố tại chỗ. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tế bào sắc tố không hoàn toàn biến mất trong vùng biểu bì mất sắc tố, và các tế bào sắc tố còn sót lại này vẫn có khả năng phục hồi chức năng.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Đối với nhóm Bạch biến lan toả
Các rối loạn giảm sắc tố di truyền
Các rối loạn nhiễm trùng
Giảm sắc tố sau viêm
Mất sắc tố do các bệnh lý liên quan đến ung thư
Căn nguyên chưa xác định
Mất sắc tố do hoá chất
Đối với nhóm Bạch biến khu trú
Các chiến lược điều trị khác nhau đã được nghiên cứu để ức chế phản ứng miễn dịch trong bệnh bạch biến, từ đó giảm thiểu sự phá hủy các tế bào sắc tố, đồng thời thúc đẩy sự tái tạo lớp biểu bì bằng các tế bào sắc tố, cả bằng cách kích thích phục hồi các tế bào sắc tố bị tổn thương tại chỗ và tái kích hoạt các tế bào sắc tố còn lại hoặc kích thích sự di chuyển của tế bào sắc tố từ da lân cận hoặc nang lông. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa rõ mức độ cần thiết để các phương pháp điều trị phải ức chế quá trình tự miễn so với việc kích thích sự tái tạo tế bào sắc tố trong lớp biểu bì để đạt hiệu quả tối ưu.
Liệu pháp tia UV
Liệu pháp tia UV bao gồm liệu pháp quang trị liệu với tia UVB dải hẹp (NB-UVB—311 nm) hoặc UVB dải rộng (BB-UVB—290–320 nm), và quang trị liệu hóa học. Liệu pháp UV được cho là có tác dụng như một chất điều hòa miễn dịch trên da, điều chỉnh hoạt động của các cytokine viêm, làm giảm số lượng tế bào Langerhans, điều chỉnh hoạt động của các tế bào T điều hòa, từ đó làm giảm hoặc ổn định quá trình mất sắc tố trong bệnh bạch biến. Bên cạnh đó, tia UV cũng điều phối một số con đường qua đó các cytokine melanogen kích thích quá trình tạo melanin. Thêm vào đó, tia UV có thể kích thích sự giải phóng các yếu tố từ biểu bì giúp kích thích sự phát triển và di chuyển của các tế bào sắc tố, mặc dù giả thuyết này chưa được chứng minh trong các tổn thương bạch biến tái sắc tố.
Quang trị liệu UVB dải hẹp (NB-UVB), với đỉnh phát xạ ở 311 nm, được coi là liệu pháp hiệu quả và an toàn nhất hiện nay cho bệnh bạch biến, và do đó là phương pháp điều trị lựa chọn cho những bệnh nhân mắc bệnh bạch biến lan toả mức độ vừa đến nặng. Các nghiên cứu gần đây cho thấy NB-UVB mang lại tỷ lệ tái sắc tố cao hơn và kết quả đồng màu da tốt hơn, có ít tác dụng phụ ngắn hạn hơn, chẳng hạn như đỏ da đau đớn, và dường như ít gây ra tác dụng phụ dài hạn như da dày lên, teo da và ung thư da do ánh sáng hơn so với PUVA.
Hình 4. Quang hoá trị liệu PUVA
Phác đồ NB-UVB thường được sử dụng là điều trị 2 lần mỗi tuần với liều bắt đầu cố định là 0.21 J/cm², tăng liều lên 20% ở mỗi buổi điều trị cho đến khi đạt được liều đỏ da tối thiểu (liều thấp nhất gây ra đỏ da rõ ràng trên da bị mất sắc tố sau 24 giờ). Khoảng 9 tháng điều trị là cần thiết để đạt được tái sắc tố tối đa; ít nhất 3 tháng điều trị là cần thiết trước khi tình trạng được xếp vào loại không đáp ứng điều trị. Những vùng có đáp ứng tốt nhất là mặt, thân và tay, trong khi tay và chân có phản ứng kém nhất.
Cho đến gần đây, quang hoá trị liệu PUVA được coi là phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân mắc bệnh bạch biến rộng. PUVA là sự kết hợp giữa psoralen (8-methoxypsoralen) dạng uống hoặc bôi với tia UVA (320–400 nm). Psoralen được sử dụng là methoxsalen, dùng với liều 0.4 mg/kg cân nặng cơ thể, uống trước khi tiếp xúc với tia UVA 1-2 giờ; hoặc dạng bôi methoxsalen 0.1% được bôi lên các vùng da bạch biến 30-60 phút trước khi tiếp xúc với tia UV. Sau khi điều trị bằng psoralen dạng uống, bệnh nhân phải đeo kính bảo vệ UVA, và cũng nên sử dụng kem chống nắng phổ rộng và mặc quần áo bảo vệ. Bệnh nhân có làn da tối thường có phản ứng tốt nhất với PUVA, có thể vì họ có khả năng chịu đựng tia UV cao hơn. PUVA không được khuyến cáo cho trẻ em dưới 12 tuổi vì nguy cơ lâu dài của đục thủy tinh thể và ung thư da.
Corticosteroids
Corticosteroid bôi là liệu pháp đầu tay cho bệnh bạch biến khu trú, và được khuyến cáo mạnh mẽ cho các tổn thương trên mặt hoặc các vết nhỏ và sử dụng được cho trẻ em. Lợi ích của corticosteroid bôi bao gồm dễ sử dụng, tỉ lệ tuân thủ cao và chi phí thấp. So với PUVA vốn thúc đẩy tái sắc tố chủ yếu ở quanh nang lông, corticosteroid bôi kích thích tái sắc tố đồng đều hơn, xuất hiện nhanh chóng nhưng ít ổn định hơn.
Các corticosteroid nhóm 3 và 4 được chứng minh có hiệu quả nhất cho điều trị bạch biến khu trú. Do đó, các tổn thương khu trú có thể được điều trị bằng corticosteroid fluorinated mạnh (ví dụ, mỡ clobetasol propionate, 0.05%) trong 1-2 tháng. Việc điều trị có thể được giảm dần xuống corticosteroid với độ mạnh thấp hơn (ví dụ, kem hydrocortisone butyrate, 0.1%). Cần thận trọng khi sử dụng corticosteroid bôi quanh và trên mí mắt, vì việc sử dụng chúng có thể làm tăng áp lực nội nhãn và làm trầm trọng thêm bệnh tăng nhãn áp. Liệu pháp kết hợp (corticosteroid + UVB, corticosteroid + chất ức chế calcineurin, corticosteroid + các dẫn xuất vitamin D) có thể có lợi trong một số trường hợp, vì hai tác nhân kết hợp có thể tác động cộng hưởng lên việc phục hồi sắc tố và ức chế miễn dịch, ở liều thấp hơn, do đó có thể giảm thiểu tác dụng phụ tổng thể.
Các dẫn xuất Vitamin D bôi
Các dẫn xuất vitamin D - mỡ calcipotriol (0,005%) và mỡ tacalcitol (20 μg/g) giúp phục hồi sắc tố trong bệnh bạch biến bằng cách kích thích ức chế miễn dịch tại chỗ, ngừng quá trình tự miễn tại khu vực bị ảnh hưởng, và thông qua việc kích hoạt trực tiếp các tiền tế bào sắc tố và các con đường tổng hợp sắc tố. Một số nghiên cứu cho thấy hiệu quả tái sắc tố tốt hơn khi các dẫn xuất vitamin D được sử dụng trong liệu pháp kết hợp. Các dẫn xuất vitamin D được chỉ định cho bệnh nhân có bệnh bạch biến khu trú; những lợi ích bao gồm không gây teo da và dễ dàng khi sử dụng. Tuy nhiên, vai trò của chúng trong điều trị bạch biến vẫn còn gây tranh cãi; trong khi một số nghiên cứu báo cáo lợi ích rõ rệt, một số khác lại cho thấy các dẫn xuất vitamin D không hiệu quả.
Điều trị phẫu thuật
Cấy ghép da tự thân là một lựa chọn cho việc tái sắc tố chỉ trong những bệnh nhân có bệnh bạch biến ổn định, kháng trị hoặc chỉ đáp ứng một phần với điều trị y tế, và thường giới hạn diện tích (dưới 3% diện tích bề mặt cơ thể). Các tác dụng phụ phổ biến nhất là nhiễm trùng, tăng sắc tố sau viêm, tái sắc tố không thẩm mỹ, vết sẹo và lồi cục. Liệu pháp ánh sáng UV thường giúp tăng tốc và cải thiện tái sắc tố khi kết hợp với các phương pháp phẫu thuật.
Bạch biến là rối loạn về sắc tố thường gặp nhất, ảnh hưởng đến 0,3%–0,5% dân số toàn cầu. Đây là một bệnh đa nhân tố, trong đó có liên quan đến nhiều gen và nhiều yếu tố môi trường khác nhau tác động tổng hợp. Bệnh đặc trưng bởi sự phá hủy tiến triển của các tế bào sắc tố biểu bì do cơ chế tự miễn, với biểu hiện điển hình là các vùng da và tóc trắng (nhạt màu). Bệnh không ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ, không lây nhiễm nhưng lại ảnh hưởng khá lớn tới mặt thẩm mỹ cũng như tâm lý của người bệnh. Người mắc bệnh bạch biến có gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tự miễn khác, diễn tiến thường không thể tiên lượng trước và kết quả điều trị cần có sự kiên trì phối hợp giữa bác sĩ và bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!