Bác sĩ: ThS.BS Trần Thị Kim Ngọc
Chuyên khoa: Nội tiết
Năm kinh nghiệm: 04 năm
Bệnh gai đen (AN) đã được báo cáo liên quan đến tình trạng kháng insulin (IR). Bệnh gai đen là tình trạng lớp biểu bì dày, một bệnh ngoài da lần đầu tiên được mô tả liên quan đến béo phì vào năm 1889 bởi Gerson Unna P. và Pollitzer S. Bệnh còn có tên gọi khác là bệnh tăng sắc tố đen hay còn được gọi là bệnh hắc tố chuyển hóa, là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh hắc tố ở mặt thường liên quan đến rối loạn chuyển hóa. Bệnh gai đen được định nghĩa là tình trạng tăng sắc tố dạng chấm nâu đến đen với các ranh giới không rõ ràng và các vùng có các mức độ thay đổi về kết cấu khác nhau, từ thô ráp nhẹ đến vẻ ngoài nhung mịn rõ ràng. Nhiều phân biệt khác nhau bao gồm tăng sắc tố ma sát, viêm da tiếp xúc sắc tố, tăng sắc tố trưởng thành (MH) và nám da. Việc chẩn đoán bệnh gai đen trở nên cần thiết do liên quan đến rối loạn chuyển hóa, kháng insulin (IR) và béo phì.
Da là cửa sổ nhìn vào hệ thống bên trong cơ thể con người. Nhiều tình trạng da có mối liên hệ hệ thống tiềm ẩn. Bệnh gai đen thường được xem xét ở những bệnh nhân béo phì hoặc những người mắc rối loạn chuyển hóa.Triệu chứng thường được thấy ở vùng gò má trên mặt và ở cổ, nách, bẹn và đốt ngón tay.
Kháng insulin được định nghĩa là tình trạng đáp ứng sinh học dưới mức bình thường đối với nồng độ hormone này trong huyết thanh và dẫn đến tình trạng tăng insulin máu như một nỗ lực để đạt được phản ứng sinh lý đầy đủ. 7 Sự gia tăng mô mỡ ở trẻ em là yếu tố ban đầu có khả năng xảy ra nhất dẫn đến những thay đổi trong quá trình chuyển hóa glucose và kích hoạt tình trạng kháng insulin, do đó, phải tìm kiếm các chỉ số lâm sàng và xét nghiệm về tình trạng kháng insulin ở trẻ em béo phì.
Bệnh gai đen là bệnh tự phát hoặc liên quan đến các tình trạng lành tính (di truyền, béo phì hoặc rối loạn chức năng nội tiết) trong phần lớn các trường hợp. Các biểu hiện trên da được thấy trong bệnh gai đen là kết quả của sự kích thích yếu tố tăng trưởng của tế bào sừng và nguyên bào sợi da.
Các yếu tố chính được đề xuất có thể là insulin hoặc yếu tố tăng trưởng giống insulin (IGF) kích thích sự tăng sinh tế bào biểu bì và thụ thể tyrosine kinase (thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì hoặc nguyên bào sợi).
Bệnh gai đen có liên quan đến tình trạng thừa cân béo phì
Tổn thương lâm sàng và phân độ tổn thương
Bệnh gai đen được đặc trưng bởi các tổn thương đối xứng, màu da hoặc nâu, nhung, đặc biệt thấy ở nách, cổ, bẹn, nếp gấp dưới vú, hố khoeo, khuỷu tay và vùng rốn. Ít phổ biến hơn, bệnh có thể ảnh hưởng đến mí mắt, vùng lòng bàn tay, núm vú và đốt ngón tay. Trong những trường hợp rất hiếm, bệnh có thể liên quan đến bề mặt niêm mạc của miệng, đường hô hấp trên và vùng sinh dục. Có thể thấy các thay đổi dạng u nhú trong khoang miệng và tăng sừng hóa theo kiểu nhăn nheo có thể phát triển ở lòng bàn tay (lòng bàn tay đầy lá) và bề mặt mu bàn tay của các khớp lớn. Kích thước của các tổn thương này có thể thay đổi từ 1mm đến 1 cm; màu sắc dao động từ nâu đến đen.
Thang điểm Burke được sử dụng để xác định mức độ nghiêm trọng của AN ở cổ. Phân độ lâm sàng được chia làm 4 độ. Độ 0 là không có biểu hiện trên da. Độ 1 là tình trạng gai đen hiện diện rõ ràng khi kiểm tra trực quan kỹ nhưng không nhìn thấy được bằng mắt thường và không thể đo được. Độ 2 khi tổn thương gai đen giới hạn ở đáy hộp sọ mà không lan đến các rìa bên của cổ (thường có chiều rộng <7,62 cm). Độ 3 tổn thương gai đen lan đến các rìa bên của cổ và bờ sau của cơ ức đòn chũm (thường kéo dài 7,62–15,24 cm) mà không nhìn thấy được khi quan sát người tham gia từ phía trước. Độ 4 tổn thương gai đen lan ra phía trước (thường có chiều rộng >15,24 cm) mà có thể nhìn thấy được khi quan sát người tham gia từ phía trước
Bệnh da đen vùng cổ
Bảng 1: Phân loại tổn thương bệnh gai đen trên mặt theo Sharqie
Độ | Độ dày bề mặt | Màu sắc |
I | 0 | nâu nhạt |
II | nhẹ | nâu |
III | vừa phải , cảm giác sờ như vải mịn, vải nhung | nâu sẫm |
IV | nặng, sờ cảm giác rát | đen |
4 Cận lâm sàng
Bảng 2 : Tóm tắt các đặc điểm tương quan về da liễu và mô bệnh học
Màu sắc da | Soi da | Mô bệnh học |
Nâu nhạt | Nút nang lông và rãnh nhỏ có màu nâu không đồng đều và có sắc tố quanh nang lông | Tăng sừng nhẹ và tăng sắc tố ở lớp đáy với tình trạng tăng sinh gai và u nhú tối thiểu |
Nâu sẫm | Rãnh nổi rõ, các hạt màu nâu lớn hơn kèm theo tăng sắc tố quanh nang lông | Tăng sừng hóa vừa phải và tăng sắc tố ở lớp đáy với tình trạng tăng sinh gai và u nhú vừa phải |
Đen | Rãnh lõm rõ rệt và có mào nổi bật | Tăng sừng hóa và tăng sắc tố lan rông ở lớp đáy, đồng thời tăng sắc tố và u nhú nghiêm trọng |
Giải phẫu bệnh của bệnh gai đen: tăng sinh gai, u nhú và melalin
Soi da bệnh gai đen. a- nhẹ: tắc nang lông và kiểu rãnh nang lông tinh tế (dấu sao màu đỏ) với các nốt màu nâu không đông đều ( dấu sao màu xanh láy cây) và tăng sắc tố quanh nang lông.
b- trung bình : rãnh nang lông nổi rõ, các nốt màu nâu lớn hơn ( hình tròn vàng) và tăng sắc tố quanh nang lông ( hình tròn trắng)
c - nặng: rãnh nang lông lõm rõ rệt ( mũi tên đen) và màu nang lông nổi rõ (dấu sao vàng)
Bệnh gai đen cần được chẩn đoán phân biệt với một số bệnh lí khác của da liễu cũng làm tăng sắc tố da như tăng sắc tố trưởng thành ( MH), nám da và liken phẳng sắc tố (LPP).
Đặc điểm | Bệnh gai đen | Tăng sắc tố trưởng thành | Liken phẳng sắc tố | Nám da |
Lâm sàng | Lâm sàng Sắc tố đốm có màu từ nâu đến đen, ranh giới mờ không rõ và có các mức độ thay đổi về kết cầu | Kết cấu mượt hơn bênh gai đen | Các đốm da màu xám - xanh hoặc nâu sẫm khu trú hoặc lan tỏa trên các vùng tiếp xúc | Tăng sắc tố tiến triển đối xứng, có màu sẫm hơn màu da |
Soi da | Nhiều cristae và rãnh với các chấm tăng sắc tố | Có các vòng tăng sắc tố quanh nang lông | Các sắc tố xanh xám hoặc nâu sẫm có sự phân bố đều đặn một số trường hợp có hoa văn giống như viền | Sắc tố nâu nhạt đến nâu sẫm lan tỏa, bảo tồn lỗ nang lông |
Mô bệnh học | Tăng sừng hoặc tăng sắc tố ở lớp đáy với các mức độ tăng sừng và u nhú khác nhau | tăng sừng hoặc tăng nhú ở lớp đáu với mức độ tối thiểu hoặc không có. Tăng sắc tố ở lớp đấy mức độ trung bình đến dày đặc | Teo lớp hạ bì và mất mô hình lưới | Tăng nồng độ melanin, tăng nồng độ BC lympho ở da |
Bệnh gai đen thường có liên quan chặt chẽ đến hội chứng kháng Insulin hoặc đột biến đột biến thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi (FGFR). Bệnh gai đen cũng có thể xuất hiện như một tác dụng phụ của một số loại thuốc thúc đẩy tăng insulin máu, chẳng hạn như glucocorticoid, niacin, insulin, thuốc tránh thai đường uống và thuốc ức chế protease.Nồng độ insulin tăng cao dẫn đến kích hoạt trực tiếp và gián tiếp các thụ thể IGF-1 trên tế bào sừng và nguyên bào sợi, dẫn đến sự tăng sinh. Các chất trung gian khác cũng có thể góp phần, bao gồm các thụ thể tyrosine kinase khác như EGFR và FGFR. (IGF = yếu tố tăng trưởng giống insulin, BP = protein liên kết, IGF-1R = thụ thể yếu tố tăng trưởng giống insulin 1, EGFR = thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì, FGFR = thụ thể yếu tố tăng trưởng nguyên bào sợi)
Bệnh gai đen thường liên quan nhất đến các rối loạn liên quan đến tình trạng kháng insulin, bao gồm béo phì, tiểu đường loại 2 và hội chứng buồng trứng đa nang. Trong những trường hợp này, tình trạng tăng insulin máu được cho là đóng vai trò then chốt .
Ở nồng độ thấp, insulin điều chỉnh quá trình chuyển hóa carbohydrate, lipid và protein và có thể thúc đẩy tăng trưởng yếu bằng cách liên kết với các thụ thể insulin "cổ điển". Tuy nhiên, ở nồng độ cao, insulin có thể phát huy tác dụng thúc đẩy tăng trưởng mạnh hơn thông qua liên kết với các thụ thể yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1R), có kích thước và cấu trúc tiểu đơn vị tương tự như thụ thể insulin, nhưng liên kết với IGF-1 với ái lực lớn hơn insulin từ 100 đến 1000 lần.
Một số quan sát cho thấy rằng sự kích hoạt phụ thuộc insulin của IGF-1R có thể thúc đẩy sự tăng sinh tế bào và tạo điều kiện cho sự phát triển của bệnh gai đen. Đầu tiên, các thụ thể IGF được tìm thấy trong các nguyên bào sợi và tế bào sừng nuôi cấy . Thứ hai, insulin có thể đi qua mối nối biểu bì và hạ bì, và ở nồng độ cao có thể kích thích sự phát triển và sao chép của các nguyên bào sợi. Cuối cùng, mức độ nghiêm trọng của AN ở bệnh béo phì có mối tương quan tích cực với nồng độ insulin khi nhịn ăn. Do đó, insulin có thể thúc đẩy bệnh gai đen thông qua sự kích hoạt trực tiếp của con đường truyền tín hiệu IGF-1.
Tuy nhiên, cơ chế sinh bệnh thực sự của bệnh gai đen có thể phức tạp hơn. Bệnh nhân béo phì hiếm khi, nếu có, đạt được mức insulin đủ cao (10 nm) để kích hoạt IGF-1R. Sự ưa chuộng của AN đối với các vùng như cổ và nách cho thấy rằng mồ hôi và/hoặc ma sát cũng có thể là các yếu tố đồng hành cần thiết.
Tăng insulin máu cũng có thể tạo điều kiện cho sự phát triển của AN gián tiếp bằng cách tăng mức độ IGF-1 tự do trong tuần hoàn. Hoạt động của IGF-1 được điều chỉnh bởi các protein liên kết IGF (IGFBP), làm tăng thời gian bán hủy của IGF-1, đưa IGF đến các mô đích và điều chỉnh mức độ của IGF-1 "tự do" hoạt động về mặt chuyển hóa. Protein liên kết yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 và IGFBP-2 đều giảm ở những người béo phì bị tăng insulin máu, làm tăng nồng độ IGF-1 tự do trong huyết tương. Sự gia tăng IGF-1 hoạt tính sinh học thúc đẩy sự phát triển và biệt hóa tế bào.
Yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 được biểu hiện trong lớp hạt và bởi nguyên bào sợi da, nhưng không phải bởi tế bào sừng nền biểu bì . Về mặt lý thuyết, việc giảm toàn thân IGFBP-1 và IGFBP-2 do insulin gây ra có thể làm tăng mức độ IGF-1 tự do tại chỗ, do đó tạo điều kiện cho sự phát triển của chứng tăng sừng và u nhú.
Hiểu được mối liên hệ giữa bệnh gai đen và tình trạng kháng insulin là rất quan trọng đối với các bác sĩ lâm sàng. Bệnh nhân mắc bệnh gai đen có nguy cơ mắc tất cả các thành phần của hội chứng chuyển hóa: béo phì, tăng huyết áp, tăng triglyceride, lipoprotein mật độ cao thấp và không dung nạp glucose . Giống như béo phì, PCOS có liên quan đến tình trạng kháng insulin, tăng insulin máu và bệnh gai đen. Hội chứng này bao gồm tăng tổng hợp androgen buồng trứng và tuyến thượng thận và ức chế tổng hợp globulin gắn hormone sinh dục ở gan. Các dấu hiệu cảnh báo cần phải đánh giá cẩn thận về tình trạng ác tính ở những bệnh nhân mắc bệnh gai đen bao gồm sụt cân không chủ ý và khởi phát nhanh, gai đen lan rộng.
Quan trọng nhất là cần kiểm soát tình trạng kháng insulin và các rối loạn chuyển hóa đi kèm. Cần có sự phối hợp giữa chuyên khoa nội tiết và chuyên khoa da liễu.
Bệnh gai đen là tình trạng da tắc sắc tố với kết cấu nhiều mức độ khác nhau, các vị trí thường gặp nhất là các vùng gấp, đặc biệt là ở nách, bẹn và cổ; đây là một tình trạng có thể điều trị được; tuy nhiên, việc chữa khỏi hoàn toàn và biến mất các tổn thương là rất khó. Giảm cân là chiến lược quản lý khoa học và thực tế nhất. Bệnh gai đen có thể coi là là một dấu hiệu trên da của bệnh béo phì và kháng Insulin. Do đó với các tổn thương trên da nghi ngờ bệnh gai đen trên thể trạng thừa cân, béo phì cần được thăm khám sớm đề đánh giá toàn diện sức khỏe. Việc chẩn đoán sớm bệnh gai đen sẽ trở nên cần thiết vì liên quan đến rối loạn chuyển hóa, béo phì và tình trạng kháng insulin.
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!