Từ điển bệnh lý

Bệnh ghẻ cóc : Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ngày 10-05-2023

Tổng quan Bệnh ghẻ cóc

Bệnh ghẻ cóc do xoắn khuẩn Treponema pertenue gây bệnh, là bệnh có tỷ lệ mắc cao nhất trong số các bệnh do xoắn khuẩn không lây truyền qua đường tình dục gây ra. Bệnh phổ biến ở vùng nông thôn, những nơi đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém, các khu vực nhiệt đới như châu Phi, Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương. Trong đó, Tây Phi được coi là ổ bệnh của bệnh ghẻ cóc, đặc biệt Ghana và Cote d'Ivoire. Bệnh thường xuất hiện ở trẻ em, lứa tuổi từ 1 đến 15 tuổi; đặc biệt hay gặp ở nhóm từ 5 đến 10 tuổi. Trẻ em dưới 1 tuổi thường ít mắc bệnh. Thời gian ủ bệnh chưa rõ ràng, thường từ 9 đến 90 ngày (trung bình là 21 ngày). Bệnh nhân mắc bệnh ghẻ cóc thường xuất hiện các tổn thương nốt sẩn, u nhú, vết loét và có thể gây tổn thương xương, khớp nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Bệnh ghẻ cóc do xoắn khuẩn Treponema pertenue gây bệnh

Bệnh ghẻ cóc do xoắn khuẩn Treponema pertenue gây bệnh


Nguyên nhân Bệnh ghẻ cóc

Căn nguyên gây bệnh ghẻ cóc do xoắn khuẩn Treponema pertenue gây bệnh. Xoắn khuẩn dễ bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao, điều kiện môi trường khô và tiếp xúc với không khí. Vi khuẩn nhân lên chậm và không thể tồn tại ngoài cơ thể vật chủ. Xoắn khuẩn thuộc nhóm Treponema pallidum do đó không nuôi cấy được, kháng sinh đồ chỉ được thực hiện qua các phương pháp xét nghiệm gián tiếp hay PCR phát hiện đột biến kháng kháng sinh. Trong đó, T.pertenue nhạy với penicillin, chloramphenicol, tetracyclin và erythromycin.

Bệnh nhân sau khi tiếp xúc với tổn thương, xoắn khuẩn sẽ xâm nhập qua da và lớp tế bào biểu mô, gắn với bề mặt phủ fibronectin trên chất nền ngoại bào của tế bào chủ. Tổn thương xuất hiện khi có từ 107 vi khuẩn/ mg mô. Sau khi xâm nhập, vi khuẩn xuất hiện ở hạch lympho sau vài phút và phân tán rộng trong vòng vài giờ, di chuyển tới các vùng da và niêm mạc ở xa, tăng nguy cơ các lần lây truyền tiếp theo. Mặc dù xoắn khuẩn có các cơ chế chống lại phản ứng miễn dịch của vật chủ, tổn thương ghẻ cóc mới hiếm khi phát hiện thấy ở người lớn, cho thấy miễn dịch có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi tình trạng tái nhiễm.

Bệnh ghẻ cóc ảnh hưởng đến cả da và xương; tổn thương da trong bệnh ghẻ cóc gần tương tự với bệnh giang mai. Tổn thương giai đoạn sớm trong bệnh ghẻ cóc chủ yếu là tăng sản biểu mô và u nhú, thường có hiện tượng xốp bào khu trú và tập trung bạch cầu đa nhân trong lớp biểu mô. Trái ngược với giang mai, sinh thiết da ở bệnh nhân ghẻ cóc cho thấy nhiều tương bào nhưng ít tế bào B và T, và ít biến đổi về mạch máu.


Triệu chứng Bệnh ghẻ cóc

Bệnh ghẻ cóc gồm thời kỳ tiên phát, thứ phát và thời kỳ thứ ba. Phần lớn bệnh nhân xuất hiện tổn thương tiên phát ngoài da ở chi dưới khi còn nhỏ; một số tiến triển thành đau khớp do có tổn thương khớp đi kèm. Tổn thương da ban đầu là sẩn không đau và nếu không được điều trị, sau vài tuần đến vài tháng sẽ tiến triển thành nốt loét; tổn thương xương có thể là biến chứng muộn của bệnh.

- Thời kỳ tiên phát: Tổn thương tiên phát xuất hiện ở vị trí lây nhiễm; thường là một nốt sẩn khu trú, sau có thể tiến triển thành nốt lớn có màu vàng, đường kính từ 2 đến 5 cm (u nhú) và loét. Tổn thương không đau, nhưng có thể có mủ. Vết loét đặc trưng có nền đỏ bao gồm lớp mô hạt, với bờ tổn thương cứng và nhô cao. Tổn thương tiên phát chủ yếu xuất hiện ở cẳng chân và mắt cá chân, nhưng cũng có thể xuất hiện ở mông, cánh tay, bàn tay và mặt. Tổn thương thường tự lành sau 3 đến 6 tháng, để lại sẹo rỗ tăng sắc tố. Đôi khi, tổn thương tiên phát xuất hiện ở giai đoạn khởi đầu của thời kỳ thứ phát.

Triệu chứng bệnh ghẻ cóc

Triệu chứng bệnh ghẻ cóc

- Thời kỳ thứ phát: Tổn thương thứ phát là kết quả quá trình lan theo dòng máu và các hạch lympho của vi khuẩn, thường xuất hiện sau vài tuần đến hai năm sau tổn thương tiến phát. Tổn thương da thứ phát bao gồm nốt u nhú đơn độc hoặc vết loét tương tự tổn thương tiên phát hoặc vỡ các đám sùi nhỏ quanh một khu vực. Nhiều mảng da có vảy hoặc mảng hình đĩa hoặc hình dáng bất thường có thể phát triển. Đau khớp thường xuất hiện ở ghẻ cóc thời kỳ thứ phát. Các biểu hiện khác ở giai đoạn này bao gồm u nhú ở lòng bàn tay, bàn chân hoặc mảng sừng hóa gây đau, hay đau xương về đêm do viêm xương dài, xương đốt ngón tay. Bệnh ghẻ cóc gây tổn thương nhiều xương, trung bình là 3 xương, thường ở tay và chân. Nhìn chung, tổn thương tiên phát và thứ phát có thể hết nếu được điều trị. Nếu không đươc điều trị, các triệu chứng cũng có thể tự hết do phản ứng miễn dịch của cơ thể, đồng thời, bắt đầu thời kỳ muộn của bệnh.

- Thời kỳ muộn của bệnh ghẻ cóc được đặc trưng bởi sự vắng mặt các triệu chứng lâm sàng nhưng vẫn có bằng chứng huyết thanh cho thấy tình trạng nhiễm trùng. Sự tái xuất hiện các triệu chứng thường gặp và chủ yếu trong 1 đến 2 năm đầu sau phơi nhiễm, nhưng cũng có thể sau 5 đến 10 năm. Bệnh ghẻ cóc thời kỳ ba thường không phổ biến, gặp ở những bệnh nhân không điều trị sau 5 đến 10 năm. Tổn thương giai đoạn này là tổn thương gôm ở da, xương và các mô bên dưới, gây biến dạng xương dài, nốt dưới da cạnh khớp, tăng sinh khoang mũi xương hàm trên, loét vùng hầu họng kèm nhiễm trùng thứ phát. Do bệnh ghẻ cóc có thể lan truyền qua hạch bạch huyết và đường máu, bệnh có thể gây tổn thương thần kinh và mắt, tim mạch.


Các biến chứng Bệnh ghẻ cóc

Nếu không được điều trị, bệnh nhân có thể tiến triển đến thời kỳ thứ 3; biểu hiện lâm sàng là tổn thương gôm ở da, xương và các mô bên dưới, gây biến dạng xương dài, nốt dưới da cạnh khớp, tăng sinh khoang mũi xương hàm trên, loét vùng hầu họng kèm nhiễm trùng thứ phát. Do bệnh ghẻ cóc có thể lan truyền qua hạch bạch huyết và đường máu, bệnh có thể gây tổn thương thần kinh và mắt, tim mạch.


Đường lây truyền Bệnh ghẻ cóc

Bệnh ghẻ cóc lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với các tổn thương nhiễm trùng. Do T.p.pertenue phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm, tỷ lệ lây nhiễm qua tổn thương da tăng cao hơn vào mùa ẩm; độ ẩm cao làm tăng sự phát triển của u nhú và sự tồn tại của xoắn khuẩn trong dịch tiết. Khả năng lây truyền càng cao khi bệnh nhân có tổn thương da (như vết cào hay côn trùng cắn). Các trường hợp mắc ghẻ cóc thường thành nhóm giữa các hộ gia đình hoặc ở các trẻ nhỏ trong cùng lớp học. Bệnh ghẻ cóc chủ yếu lây truyền giai đoạn trẻ nhỏ và tổn thương nhiễm trùng thường tự khỏi trước khi trưởng thành; lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra nhưng không thường xuyên.

Bệnh ghẻ cóc không được coi là bệnh lây nhiễm từ mẹ sang con, có thể do hầu hết các ca mắc xảy ra ở trẻ nhỏ chứ không phải phụ nữ độ tuổi sinh đẻ.


Đối tượng nguy cơ Bệnh ghẻ cóc

Bệnh phổ biến ở vùng nông thôn, những nơi đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém, các khu vực nhiệt đới như châu Phi, Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương. Trong đó, Tây Phi được coi là ổ bệnh của bệnh ghẻ cóc, đặc biệt Ghana và Cote d’Ivoire. Bệnh thường xuất hiện ở trẻ em, lứa tuổi từ 1 đến 15 tuổi; đặc biệt hay gặp ở nhóm từ 5 đến 10 tuổi. Trẻ em dưới 1 tuổi thường ít mắc bệnh. Thời gian ủ bệnh chưa rõ ràng, thường từ 9 đến 90 ngày (trung bình là 21 ngày).

Bệnh phổ biến ở vùng nông thôn, những nơi đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém, các khu vực nhiệt đới như châu Phi

Bệnh phổ biến ở vùng nông thôn, những nơi đông dân cư, điều kiện vệ sinh kém, các khu vực nhiệt đới như châu Phi


Phòng ngừa Bệnh ghẻ cóc

Ngoài việc bệnh nhân ghẻ cóc cần được chẩn đoán sớm và điều trị kip thời, các đối tượng tiếp xúc với bệnh nhân mắc ghẻ cóc (thành viên trong gia đình, bạn cùng lớp,…) nên được điều trị theo kinh nghiệm để hạn chế tình trạng lây nhiễm trong cộng đồng.

Do bệnh tập trung ở những nơi đông dân cư, vệ sinh kém; do đó, việc đảm bảo điều kiện vệ sinh, nâng cao kiến thức của người dân về biểu hiện và phòng tránh bệnh là vô cùng quan trọng.

Việc đảm bảo điều kiện vệ sinh, nâng cao kiến thức của người dân về biểu hiện và phòng tránh bệnh là vô cùng quan trọng.

Việc đảm bảo điều kiện vệ sinh, nâng cao kiến thức của người dân về biểu hiện và phòng tránh bệnh là vô cùng quan trọng.


Các biện pháp chẩn đoán Bệnh ghẻ cóc

Để chẩn đoán bệnh ghẻ cóc cần dựa vào triệu chứng lâm sàng (sẩn dưới da ở chi dưới có thể tiến triển thành các nốt loét, cũng như tổn thương thứ phát ở xương và khớp; thường xảy ra ở trẻ em), yếu tố dịch tễ và các xét nghiệm chẩn đoán (huyết thanh, PCR,…). Các xét nghiệm chẩn đoán bệnh ghẻ cóc gồm:

  • Xét nghiệm huyết thanh: tương tự xét nghiệm chẩn đoán giang mai; do đó, xét nghiệm này không thể chẩn đoán phân biệt bệnh ghẻ cóc và giang mai.

Xét nghiệm huyết thanh

Xét nghiệm huyết thanh

  • Xét nghiệm tìm kháng thể không đặc hiệu: RPR, VDRL dương tính ở bệnh nhân không điều trị và có thể sử dụng để theo dõi điều trị. Xét nghiệm có thể dương tính giả trong trường hợp nhiễm sốt rét, bệnh phong hay bệnh lý khớp. Xét nghiệm tìm kháng thể không đặc hiệu dương tính trong 2 đến 4 tuần kể từ lúc xuất hiện tổn thương đầu tiên.
  • Xét nghiệm tìm kháng thể đặc hiệu: TPHA, TPPA, FTA-Abs,… có độ đặc hiệu cao hơn các xét nghiệm tìm kháng thể không đặc hiệu; tuy nhiên, xét nghiệm này không phân biệt được tình trạng nhiễm xoắn khuẩn đã điều trị với tình trạng mắc mới chưa điều trị. Xét nghiệm có thể dương tính ngay cả khi bệnh nhân đã điều trị khỏi.
  • Xét nghiệm test nhanh tại chỗ
  • PCR: được sử dụng để chẩn đoán bệnh giai đoạn sớm và phân biệt với các bệnh lý khác. Bệnh phẩm là dịch vết loét hoặc dịch tiết tổn thương; không khuyến cáo làm xét nghiệm PCR với bệnh phẩm máu.
  • Chẩn đoán hình ảnh: Giúp chẩn đoán các tổn thương xương, khớp kèm theo.

Ngoài ra, cần chẩn đoán bệnh ghẻ cóc với các bệnh lý khác như: giang mai (tổn thương thường xuất hiện ở bộ phận sinh dục và có thể tổn thương thần kinh trung ương), bệnh hạ cam, loét hoại tử do vi khuẩn kỵ khí, bệnh bạch hầu da, tổn thương da do Leishmania, viêm da mủ hoại thư,…


Các biện pháp điều trị Bệnh ghẻ cóc

Với bệnh nhân nghi ngờ ghẻ cóc, không mang thai; có thể điều trị bằng azithromycin liều duy nhất 30mg/kg cân nặng (tối đa là 2g) hoặc penicillin G benzathine tiêm (trẻ dưới 10 tuổi: liều duy nhất 1.2 triệu đơn vị; bệnh nhân từ 10 tuổi trở lên: liều duy nhất 2.4 triệu đơn vị). Các kháng sinh khác có thể lựa chọn gồm erythromycin, doxycycline và tetracycline.

Trên đối tượng phụ nữ có thai hoặc cho con bú nghi ngờ ghẻ cóc, điều trị ưu tiên bằng penicillin G benzathine tiêm 2.4 triệu đơn vị liều duy nhất.

Với bệnh nhân ghẻ cóc giai đoạn muộn được khuyến cáo điều trị để ngăn chặn tình trạng tái nhiễm và tiến triển của bệnh ghẻ cóc gây các biến chứng ở thời kỳ 3.

Ngoài ra, có thể sử dụng các biện pháp hỗ trợ như thay băng, giữ tổn thương loét sạch, tránh bội nhiễm; giảm đau khi đau xương, khớp nhiều. Sau điều trị, bệnh nhân cần được làm lại xét nghiệm huyết thanh không đặc hiệu (RPR, VDRL) sau 6 và 12 tháng.


Tài liệu tham khảo:

Oriol Mitjà, David Mabey. Yaws, bejel and pinta, Uptodate, 2019.

Lựa chọn dịch vụ

Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà

Lấy mẫu xét nghiệm tại nhà giúp khách hàng chủ động tầm soát bệnh lý. Đồng thời tiết kiệm thời gian đi lại, chờ đợi kết quả với mức chi phí hợp lý.

Đặt lịch thăm khám tại MEDLATEC

Đặt lịch khám tại cơ sở khám chữa bệnh thuộc Hệ thống Y tế MEDLATEC giúp chủ động thời gian, hạn chế tiếp xúc đông người.