Bác sĩ: ThS.BS Trần Minh Dũng
Chuyên khoa: Tai mũi họng - Tai Mũi Họng
Năm kinh nghiệm:
Bỏng da là một trong những tổn thương phổ biến do nhiều tác nhân khác nhau gây ra. Tùy thuộc vào nguyên nhân, mức độ tổn thương có thể nhẹ, chỉ ảnh hưởng đến lớp bên ngoài của da. Cũng có trường hợp nghiêm trọng, bỏng gây tổn thương sâu đến cơ và xương. Bỏng có thể gây đau đớn, mất nước, nhiễm trùng và để lại sẹo vĩnh viễn.
Bỏng có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, phổ biến nhất là bỏng nhiệt (do lửa, nước sôi, vật nóng), bỏng hóa chất (do axit hoặc kiềm mạnh), bỏng điện, bỏng bức xạ (tia X, tia cực tím) và bỏng do ma sát.
Bỏng là tổn thương ở da do nhiều tác nhân gây ra.
Đây là loại bỏng phổ biến nhất, chiếm khoảng 90% tổng số ca bỏng. Bỏng nhiệt xảy ra khi da tiếp xúc với nhiệt độ cao (>45°C), làm biến đổi protein trong tế bào da và gây hoại tử mô. Trong trường hợp hoả hoạn, nạn nhân ngoài bỏng còn có thể bị ngộ độc carbon monoxide.
Các dạng bỏng nhiệt phổ biến:
Bỏng do điện có cơ chế tổn thương phức tạp, không chỉ gây bỏng tại chỗ mà còn ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng khác do dòng điện chạy qua cơ thể. Mức độ tổn thương tuỳ thuộc vào điện thế, điểm vào và điểm ra của luồng điện, thời gian bị, khu vực cơ thể chịu ảnh hưởng của luồng điện.
Trường hợp bỏng do điện cao thế (> 1000 vôn), tổn thương da bên ngoài thường rất ít, tuy nhiên các mô sâu bên dưới như cơ, thần kinh và mạch máu có thể bị tổn thương diện rộng. Có 3 cơ chế bỏng do điện: Bỏng do luồng điện trực tiếp; do tia lửa điện; vừa do luồng điện vừa do tia lửa điện.
Bỏng do điện thường lan rộng đến các mô ở sâu như thần kinh, cơ xương và mạch máu.
Bỏng hóa chất xảy ra khi da tiếp xúc với các chất ăn mòn mạnh như axit, bazơ, dung môi công nghiệp. Cụ thể:
Mức độ tổn thương do hóa chất phụ thuộc vào loại hóa chất, nồng độ, diện tích tiếp xúc và thời gian tiếp xúc. Một số hóa chất có thể thẩm thấu qua da vào máu, gây ảnh hưởng toàn thân.
Bỏng bức xạ thường gặp nhất là cháy nắng do tia cực tím (UV) từ mặt trời. Ngoài ra, còn có các loại bỏng bức xạ khác như:
Bỏng do bức xạ có thể gây mất nước, suy yếu hàng rào bảo vệ da, viêm loét chậm lành và tăng nguy cơ ung thư da.
Một số bệnh lý và tình trạng khác có thể gây tổn thương da tương tự như bỏng:
Các tổn thương bỏng trên da được phân loại theo độ sâu, từ mức nhẹ chỉ ảnh hưởng lớp ngoài của da đến mức nghiêm trọng hơn, gây hoại tử sâu vào các mô dưới da, cơ và xương. Dưới đây là phân loại chi tiết theo tiêu chuẩn của Viện Bỏng Quốc Gia:
Bỏng độ II gây tổn thương đến lớp trung bì, nhưng vẫn giữ nguyên một số cấu trúc da quan trọng. Loại này được chia thành hai dạng:
Mức độ tổn thương bỏng càng nặng và diện tích bỏng càng lớn, nguy cơ xảy ra biến chứng toàn thân càng cao. Những yếu tố làm tăng nguy cơ này bao gồm:
Sẹo lớn làm hạn chế cử động, ngứa và ảnh hưởng đến ngoại hình người bệnh.
Bỏng gây ra tổn thương mô theo cơ chế biến tính protein, làm mất chức năng hàng rào bảo vệ của da. Khi da bị tổn thương, hàng loạt phản ứng viêm xảy ra:
Bỏng là một trong những tai nạn phổ biến trong cuộc sống hàng ngày và trong môi trường làm việc. Theo Hiệp hội Bỏng Hoa Kỳ, mỗi năm tại Mỹ có khoảng 400.000 ca bỏng được điều trị tại khoa cấp cứu, trong đó khoảng 4.000 trường hợp tử vong do bỏng nặng hoặc biến chứng liên quan.
Chẩn đoán bỏng dựa vào đánh giá lâm sàng về diện tích bỏng, độ sâu tổn thương. Các xét nghiệm và cận lâm sàng cần thiết có thể thực hiện ở bệnh nhân mức độ nặng, cần nhập viện.
Bác sĩ sử dụng các phương pháp sau để tính diện tích bỏng:
Quy tắc số 9 của Wallace đánh giá diện tích bỏng dựa trên vùng da tổn thương.
Đánh giá độ sâu bỏng
Được thực hiện nhằm đánh giá mức độ tổn thương và tiên lượng bệnh. Đặc biệt trong trường hợp người bệnh bỏng nặng hoặc có nguy cơ bị biến chứng toàn thân.
Dội vết bỏng dưới vòi nước sạch là biện pháp giúp giảm đau và dễ thực hiện nhất.
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!